Chúc văn tế Tổ tại Từ đường họ Đinh xã Chi Lăng, Hưng Hà

z-7XSKyssd0-8Ck2CreBZpHkg44l8AeQvQBWkHYeaxrfl_V_xQbfbqwK1OE6VYSwt3QE5nBNt66-jfucTjcr9qmjFqk9MUAEizyF9QemqaR03e14z4_dtlMhSH_v8O1HT9oLmF2Y

Kính thưa: Anh linh Tiên tổ !
I
Hôm nay,
Tổ Quốc thanh bình.
Đất trời se lạnh.
Trước, Làng mở hội tế Đức Thành Hoàng.
Sau, Họ Đinh lễ Tổ.
Mười phương con cháu, hẹn về.
Trăm năm tìm lại, cõi xưa.
Vạn dặm hướng về, quê cũ.
Uống nước - Nhớ nguồn.
Tìm Tông - Lễ Tổ.
II
Thuỷ Tổ ta xưa.
Đức Mục Huệ Đại Vương, huý là Đinh Thỉnh.

Nối dòng, Đinh Tiên Hoàng Đế.
Quê vốn ở xứ Thanh.
Thiên hạ Triều Trần, tranh giành loạn lạc.
Bỏ chốn quan trường, trở về ở ẩn.
Tới vùng đất Nông Kỳ - Ỷ Đốn, lương thân.
Ở nhà Phú ông họ Phạm.
Dậy học để chờ thời.

Đất lạ, khí thiêng, mây lành, trăng báu.
Trai tài, gái sắc, nên duyên;
Cùng bà Phạm Thị Gái,
Sinh hạ Đinh Tôn Nhân.

III
Cao Tổ ta xưa
Đức Thái Uý, Hùng Quốc Công, huý là Đinh Tôn Nhân.

Gặp phải buổi,
Giặc Minh cướp Nước, tham tàn.
Nhân dân muôn phần, thống khổ,
Nỗi oán hờn như lửa, dâng lên.
Ông đã cùng Cha trở về vùng Tam Trĩ.
Thấy đất Lam Sơn, hùng khí Đế vương.
Cùng Cha - Giúp Vua Lê Lợi - Chuẩn bị - Khởi nghĩa chống quân Minh.
Nhà Vua: Mến nghĩa khí - Mến tài - Mến đức.
Cùng Phụ thân, gả chị gái yêu, Lê Thị Ngọc Vồi,
Quốc Thái Phu Nhân, sinh Tam kiệt:
Đinh Lễ, Đinh Bồ, Đinh Liệt.
Đều là anh hùng, hào kiệt nước Nam.
III
Tổ tiên ta xưa
Công của ba ông rủ xuống muôn năm,
Nay vẫn sáng ngời Quốc sử

Trưởng nam:
Đức Bình Ngô Khai Quốc Công Thần, Đại Tư Đồ, Thái Sư, Bân Quốc Công,
huý là Đinh Lễ, truy phong tước: Hiển Khánh Đại Vương.

Tính người anh nghị.
Quả cảm, mưu lược, võ nghệ hơn người.
Thân tín, hầu cận, bảo vệ Nhà Vua.
Lam Sơn tế cờ khởi nghĩa.
Lập bao công lớn lẫy lừng.
Trong trận tiền, đích thân xông trước.
Múa gươm đao, tướng giặc rơi đầu.

Diễn Châu đi tuần, đặt phục binh, chém ngàn đầu giặc,
Đoạt 300 thuyền lương, đuổi Trương Hùng về tận Tây Đô.

Thừa thắng, tiến quân ra Bắc.
Gặp lúc, Vương Thông bày trận - Mười vạn tinh binh - Đồn luỹ nối dài.
Dụng kế giặc - xứ Tốt Động, bến Ninh Kiều… Ngài cho quân mai phục.
Pháo nổ, lừa địch.
Kế thành công.
Mười vạn quân Minh, một sớm tan tành.
“ Bến Ninh Kiều máu chảy thành sông;
Xứ Tốt Động xác giặc đầy ngoài nội...
Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lượng phải phơi thây...”.
Vương Thông bị thương, chạy thoát thân vào thành Đông Quan cố thủ.

Trận My Động, tả xung, hữu đột.
Quân ít, thế cô, voi sa xuống bãi lầy.
Không chịu khuất, giặc Minh sát hại.
Bị sa cơ, còn hận mãi cho người anh hùng!

Thứ nam:
Đức Bình Ngô Khai Quốc Công Thần, Thái Bảo, Định Quốc Công,
huý là Đinh Bồ, truy phong tước: Linh Cảm Đại Vương.

Ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa.
Trong các trận Lạc Thuỷ, Mường Thôi, Trà Lân, Bồ Ải ...
Đồn luỹ giặc - Thành cao, hào rộng - Cạm bẫy dăng thành.
Bao gian nguy, quyết chí thắng quân thù.
Trúng chông độc, Ông hy sinh trận Khả Lưu với bao niềm thương tiếc.
7-OyvLECsZI-ItMn11wngBqOcZH8pWLf20Sa7AANMq2Bxv3HfgdP8ZUrbPwIvrnkxwbpo_pRoEdDOOhyym9uaPPGNcUaEjAbDiT4M0CJl7183jYkmSw_GINXCrhK0m9JpvngX2Hm

Quý nam:
Đức Bình Ngô Khai Quốc Công Thần, Thượng Trụ Quốc, Thái Sư, Lân Quốc Công,
huý là Đinh Liệt, truy phong tước: Trung Mục Đại Vương.

Tài cao, mưu giỏi, văn võ song toàn.
Hội thề Lũng Nhai, dự đứng hàng đầu.
Do tình thân ruột thịt, được hầu cận hộ vệ Nhà Vua.
Trải leo núi trèo đèo, chống đỡ lúc gian nguy.
Nhiều công lớn, từ ngày đầu khởi nghĩa.
Chiếm huyện Đỗ Gia, mai phục ải Khả Lưu
Chém tướng Hoàng Thành - Bắt Chu Kiệt - Giặc Minh đại bại.

Chặn quân tiếp viện, đặt phục binh ải hiểm Chi Lăng,
Liễu Thăng hùng hổ dẫn quân vào.
Bốn mặt quân ta, vây giết.
Núi Mã Yên, Liễu Thăng mất đầu.
Năm vạn quân Minh phơi thây nơi biên ải.
Ba vạn tên bị bắt tù binh.
Vương Thông kinh sợ, thành Đông Quan mở cửa xin hàng.
Bình Định Vương lên ngôi Hoàng đế,
Đất nước từ đây, thái bình thịnh trị.

Khi Lạng Sơn Vương thoán ngôi,
Hiệp cùng các đại thần xướng nghĩa,
Giết nghịch đảng, tôn Lê Tư Thành lên ngôi Hoàng đế;
Phò Vua Lê Thánh Tông, vị Thánh Đế anh minh quyết đoán - Hùng tài đại lược - Văn võ song toàn!

Kế ở miếu đường, mưu ở biên cương.
Vừa tướng võ, vừa tướng văn.
Tuổi ngoại tám mươi, chức Chinh Lỗ Tướng quân - Đốc suất 20 vạn thủy quân, vượt biển viễn chinh - Giúp Vua phá thành Đồ Bàn, bắt Trà Toàn vua giặc.

Mười năm, ở ngôi Thái Sư Phụ Chính, giúp nước Đại Việt ta cường thịnh bền lâu, khiến các nước chư hầu, lân bang đều khâm phục.
YMKqjeGLnIIjOFkuRify8mN9RccWz7PzcNMc0wVGGH4ABwZbOa1a2i6xdrP93IohDkaAqnNzICYDi2dg1ZoBdOfKF1RbmQ-Mx6cd7BwBJO5nLS-g4UZCY1RMh91DeUK4bgm90NIy
IV
Từ Tổ đến đời
Dòng giống Lạc Hồng.
Đất linh, sinh nhân kiệt.
Họ Đinh ta, nối đời:
Bốn vị được phong tước Đại Vương.
Hai vị được phong tước Quốc Công.
Ba vị được phong tước Quận Công.
Hai mươi bốn vị, phong tước Hầu.
Hai vị phong tước Bá.
Đời đời, Khanh tướng - Thế thế, Công hầu.
GAabGD1jobZhhns7QhR1oO2ZTmZDRzOysu6Ch5kIw1fnKks5F3PRrWbNCqoYf2rJbOKj8T0pv09GfAnef0qpGpAAcmzJH7k6FRN7aCbb-7UYLs_28ndA_fgzJABxqT4y9568onaI
Đến đời thứ chín Đức Trung Hưng công Thần, Thiếu Uý, Tả Đô Đốc Đông Quân, Dương Quận Công,
huý là Đinh Phúc Diên.
Phù Lê, diệt Mạc; xây dựng bảo vệ xóm làng.
Quê hương ngày càng trù phú.
Xóm làng sớm tối đông vui.
Dựng Từ đường trên nền đất cũ.
Thờ tổ tiên hương hỏa nối đời.

Liệt Tổ liệt Tông,
Có công với Nước, Sắc vua ban.
Cứu giúp muôn dân - Tôn lập Phúc Thần làng.
Linh thiêng hiển hách - Bảo vệ dân làng.
Quốc sử lưu bia, địa kế Thuỵ đình thang mộc ấp.
Thần Khê hưng nhượng, danh trì Mỹ lý duệ di hương.
qmYHYwHC_6wzr2JPqttrwPiN6oE_LeHXXzRNn6Q0T3O_NzzmO4Pc6RLUQ8gNnA1szfmm8_ZQtFuvtwafKPMCKcTU6qiiTTduu2KpILqQM088twod-spE29ZQw7N2S_mzlc-lsXG7
V
Con cháu hôm nay

Sát cánh bên nhau.
Trước bàn thờ Tổ.
Gọi hương hoa một lễ chân thành.
Nhớ công đức - Muôn phần ngưỡng mộ.
Mong Tổ tiên từ cõi linh thiêng.
Phù hộ cháu con, trên đường tiến bộ.
Học cha ông - Mở óc suy tư.
Cùng dòng họ: Bền gan gắn bó.
Việc học hành - Đã thi là đỗ.
Nghiệp kinh doanh - Đã quyết là thành.
Đường sự nghiệp - Đã đi là đến.
Trọn đạo nghĩa với Họ, với đời.
Dòng họ Đinh ta,
Danh thơm muôn thủa.
Chi Lăng, ngày 20 tháng 11 năm Ất Mùi.
Trưởng ban Di tích, cùng con cháu dòng tộc
Kính bái
nXpx0rMUGLt3ztD263urQhK1KG_XZf8U4onbEsPFipKllXzBkQK-dzshOIYCu1sciy-yNpiyUYBRiY_UtmuK_gZ88_BZQRK_oSw-1MOSV1OyPjSlc1YdQEZcnPA_fmtJWuFt_3oB

P/S:
- Vua Lê Đại HànhThượng Đẳng Thần - Thành Hoàng làng Đốn Ngoại, ông Lê Hoàn là bộ tướng của Đinh Bộ Lĩnh, đã đóng quân ở vùng đất Nông Kỳ - Ỷ Đốn, để chống nhau với sứ quân Phạm Bạch Hổ và Lã Đường ở vùng đất Hưng Yên, sau nhiều địa phương lập đền thờ ông. Ở làng Đún Ngoại có đền thờ Vua Lê Đại Hành, Lễ hội trong 3 ngày, từ ngày 19 tháng 11 Âm lịch.

- Các ông Đinh Lễ, Đinh LiệtĐinh Phúc Diên có công với Nước, có Từ đường thờ tại làng Đún Ngoại; được các triều Vua Lê, Vua Nguyễn sắc phong là Trung Đẳng Tôn Thần - Phúc Thần làng Đún Ngoại, được thờ phối hưởng với Thành Hoàng làng, được tế lễ ở đình cùng với Thành Hoàng làng trong ngày lễ hội làng. Sau lễ hội, con cháu họ Đinh tế lễ Tổ tiên tiếp tại Từ đường họ Đinh trong 2 ngày, từ ngày 20/11 AL.

- Chúc văn tế tổ họ Đinh phỏng theo Chúc văn của Giáo sư Vũ Khiêu, các hình ảnh trên iternet để minh họa.
 
Top