KHÁI QUÁT THÂN THẾ SỰ NGHIỆP
CÁC BẬC CÔNG THẦN HỌ ĐINH THỜI HẬU LÊ
Và dòng họ Đinh ở xã Chi Lăng, huyện Hưng Hà
Xã Minh Tân và Lô Giang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình
Theo Đinh Tộc Thế Phả và các sử liệu khác, thì Thuỷ tổ họ Đinh vốn ở Thanh Hoá. Dưới triều Trần, con cháu họ Đinh nhiều người hiển đạt, làm quan ở kinh đô. Sau này, do phản kháng Hồ Quý Ly chèn ép Vua Trần không thành, có một ông họ Đinh tên Thỉnh, văn hay chữ giỏi, rời bỏ làng ra Đô Kỳ làm gia sư cho nhà ông họ Phạm, để chờ thời. Sau này, lấy con gái bà Sang là con nuôi ông họ Phạm. Lăng miếu bà Sang tại xã Tây Đô, nơi phát tích Tổ ngoại họ Đinh đã trải hơn 600 năm, nay vẫn phụng thờ khói hương không dứt.
Ông bà Đinh Thỉnh sinh được một người con trai là Đinh Tôn Nhân. Khi con khôn lớn, Ông cùng con trai trở về quê cũ, thấy vùng đất Lam Sơn có vượng khí đế vương, nên đã cùng con trai làm quản gia cho nhà ông Lê Khoáng, là bố của Vua Lê Lợi. Vua thấy cha con Ông có nghĩa khí, bèn nói với cha, gả em gái mình là bà Lê Thị Ngọc Vồi cho ông Đinh Tôn Nhân. Ông đã cùng con trai giúp Vua Lê Lợi trong thời kỳ chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh. Sau chiến thắng quân Minh, ông Đinh Thỉnh được truy phong là Mục Huệ Đại Vương. Ông Đinh Tôn Nhân được tặng phong Thái Uý Hùng Quốc Công, Bà được phong Quốc Thái Phu Nhân.
Ông bà Đinh Tôn Nhân sinh được ba người con trai, con trưởng là Đinh Lễ, con thứ là Đinh Bồ, quý nam là Đinh Liệt. Khi khôn lớn trưởng thành, ba anh em đều là anh hùng hào kiệt, theo cậu (anh mẹ) tham dự Hội thề Lũng Nhai (1416) và Lễ tế cờ khởi nghĩa Lam Sơn (1418) chống quân xâm lược nhà Minh, lập nhiều công lớn, đều là những bậc Bình Ngô Khai quốc Công thần, được ban họ Vua (họ Lê), được truy phong tước Đại Vương. Bởi vậy, công lao của ba ông rủ xuống muôn năm:
Ông ĐINH LỄ
Ông còn gọi là Lê Lễ, tính người anh nghị, quả cảm, nhiều mưu lược, võ nghệ hơn người. Khi còn trẻ, ông đi hầu cận bảo vệ nhà Vua. Ông đã dự Hội thề Lũng Nhai và Lễ tế cờ khởi nghĩa Lam Sơn, lập được nhiều công lớn ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa.
Năm Mậu Tuất (1418), quân Minh đem đại binh vây đánh Vua tại Lam Sơn. Vua phải đem quân sang đóng ỏ núi Lạc Thuỷ, bày trận mai phục chờ giặc tới. Các ông Đinh Lễ, Đinh Bồ, Đinh Liệt hiệp cùng tướng Lê Ngân, Lê Lý, chém được hơn ngàn đầu giặc, thu được khí giới nhiều vô kể.
Năm Canh Tý (1420), Thế ta còn yếu, giặc Minh ào ạt đánh đến xứ Phụng Tân, các ông cùng các tướng sĩ theo Vua tiến vào núi Mường Một, cùng bàn mưu tính kế, đặt quân mai phục bốn mặt, giấu quân bên đường cạnh con ngòi đánh ra, quân giặc chạy tán loạn, quân ta thừa thắng chém được đầu giặc nhiều vô kể. Năm đó xét công nghị thưởng, các ông đều được thăng Thứ Thủ Quân Thiết Đột, ông Đinh Lễ tước Lý Nghĩa Bá, ông Đinh Bồ tước Hoằng Vũ Bá, ông Đinh Liệt tước Lân Vũ Bá.
Năm Tân Sửu (1421), các ông phụng mệnh Vua, cùng các tướng Lê Bí, Nguyễn Xí phục binh ở xứ Úng Ải, đến giờ ngọ quân địch đến giáp chiến, giặc đại bại. Năm Nhâm Dần (1422) quân Minh hiệp cùng nước Ai Lao (Lào) giáp công đánh ta ở Quan Gia, Ông vâng mệnh Vua cùng tướng Lê Hào, Lê Lĩnh, đích thân xông lên trước phá trận, chém được tướng giặc là Phùng Quý.
Năm Giáp Thìn (1424), Vua chia quân đi phá giặc, các ông vâng mệnh Vua hiệp cùng các tướng đánh giặc ở các xứ Trà Lân, Trà Long, Khả Lưu và Bồ Ải, ... Trong trận Khả Lưu, ông Đinh Lễ xông vào trận trước, tướng sỹ đua nhau tiến theo, ông Đinh Liệt chốt quân mai phục đánh tập hậu, quân giặc thua to, ta chém chết tướng tiên phong là Đô ty Hoàng Thành, bắt sống tướng Chu Kiệt, cùng vô số quân giặc. Các ông đều được thăng chức Tham Đốc, tước Hầu. Do nhiều công lao, ông Đinh Lễ được thăng chức Tư Không (Phó Thủ tướng). Sau chiến thắng này, Vua tiến đánh vào Nghệ An, chuyển hướng chiến lược về phía Nam.
Ông Đinh Lễ đem quân đóng đồn trại ở núi Tùng Lĩnh (nay xã Đức Trường, Đức Thọ, Nghệ An), cho quân sỹ khai khẩn hai bên bờ sông La Giang để tự túc lương thực. Tháng 5 năm Ất Tỵ (1425), Vua sai Ông đi tuần ở Diễn Châu, gặp lúc tướng Minh là Hội Ty Trương Hùng đem 300 thuyền lương từ thành Đông Quan vào, quân giặc mở cổng thành ra đón, bị phục binh của ông Đinh Lễ đổ ra đánh đuổi, chém hơn ngàn đầu giặc, đoạt hết thuyền lương, đuổi Trương Hùng về tận thành Tây Đô, nhân dịp ấy tiến vây đánh thành Tây Đô.
Năm Bính Ngọ (1426) Vua sai Ông cùng tướng Nguyễn Xí đem quân tinh nhuệ tiếp ứng các đạo quân đang đánh giặc ở miền Bắc. Ông cùng các tướng đánh thắng giặc ở Ninh Kiều, rồi đóng quân ở phía tây sông Ninh Giang.
Lúc này, Tổng Binh nhà Minh là Thành Sơn Hầu Vương Thông dẫn quân từ Yên Kinh (Trung Quốc) mới tới khí thế đang hăng, Y chia 10 vạn quân cùng các tướng giặc, thành ba cánh kéo ra phía Tây nam ngoài thành Đông Quan (Hà Nội), đóng đồn luỹ lối nhau liên tiếp dài mấy mười dặm, hòng tiêu diệt Đại quân ta. Một cánh do Sơn Thọ chỉ huy đóng ở cầu Thanh Oai, bị tướng Lê Triện đánh bại, còn Vương Thông thì đặt phục binh để chặn đại quân ta. Lê Triện thu binh về chiếm giữ chỗ hiểm yếu, cấp báo với Tư Không Đinh Lễ, lúc này ông đang cùng các tướng phục binh đợi giặc ở Thanh Đàm.
Được tin cấp báo, Ông đem hơn ba ngàn quân tinh nhuệ, hai voi chiến đang đêm đến cứu, hội quân ở Cao Bộ, chia quân phục chỗ hiểm yếu. Chợt bắt được thám báo giặc, tra hỏi thì biết: Chúng đặt pháo phía sau lưng quân ta, khi nghe tiếng pháo nổ làm hiệu, hai mặt đổ lại cùng đánh. Dụng kế giặc, Ông và tướng Lê Triện đặt quân mai phục, canh năm tháng mười đêm ấy, Ông Đinh Lễ sai người bắn pháo hiệu lừa địch.
Quả nhiên, Vương Thông và Phương Chính nghe tiếng pháo nổ tưởng cánh quân đi đường tắt, đã đến sau lưng bắn pháo vào quân ta. Khi toàn bộ quân Minh qua sông, trời mưa đường lầy, chờ chúng vào sâu trận mai phục, cách sông Yên Duyệt vài dặm. Phục binh của ta bốn mặt đổ ra thả sức đánh giết tại các xứ Tốt Động, Chúc Động, giặc dẫm đạp lên nhau, chết đuối nhiều đến nỗi nước sông Ninh Giang tắc không chẩy được. Ta chém chết Thượng thư Trần Hiệp và Nội quan Lý Lượng, diệt hơn 5 vạn tên, bắt sống hơn 1 vạn tên, thu quân tư khí giới nhiều không kể xiết. Vương Thông, Phương Chính, Mã Kỳ chạy thoát về giữ thành Đông Quan, Ông cùng các tướng thừa thắng tiến quân lên vây thành Đông Quan. Cáo Bình Ngô, viết:
"... Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi muôn dặm.
Bến Tuỵ Động xác đầy ngoài nội, thối để ngàn thu.
Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý lượng lại phơi thây..."
Vua đóng quân ở Tây Phù Liệt chỉ huy đánh thành Đông Quan, sai Tư Đồ Trần Nguyên Hãn đem thuỷ quân theo sông Hát Giang kéo xuống, Tư Không Đinh Lễ đem quân từ cầu Tây Dương ban đêm bí mật tiến vào, ba mặt góp công, phóng hoả đốt nhà ngoài thành, khói lửa ngất trời, quân Minh đóng đồn bảo vệ ngoài thành Đông Quan, tranh nhau chạy vào thành, đè lên nhau mà chết, ta bắt sống được rất nhiều.
Năm Đinh Mùi (1427), Vua chia các tướng vây giữ các cửa thành Đông Quan, ông Đinh Lễ đóng ở cửa Nam thành, nơi xung yếu nhất. Ngày 8 tháng 3, Vương Thông mang hết quân tinh nhuệ trong thành ra đánh tướng Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt. Vua nghe tin Lê Nguyễn bị nguy cấp, bèn sai Ông cùng tướng Nguyễn Xí đem hơn 500 quân Thiết đột và hai voi chiến đến ứng cứu, giặc Minh thua chạy, ta đuổi đến Mi Động (quận Hoàng Mai), Vương Thông thấy ông ít quân, không có tiếp ứng, bèn ép lại đánh. Hai ông cố sức đánh, voi sa xuống vũng lầy, bị giặc bắt đem vào thành Đông Quan. Ông Nguyễn Xí trốn được, ông Đinh Lễ không chịu khuất, bị giặc sát hại, Vua vô cùng thương tiếc, xin thi hài Ông về mai táng tại Lam Sơn và cho lập đền thờ tại làng Hoàng Mai. Giỗ ông vào ngày 13 tháng 1 âm lịch.
Vua Lê Lợi có thơ khen ông, dịch nghĩa như sau:
Phục binh pháo nổ kế thành công,
Mười vạn Tinh binh một sớm tan tành không còn gì.
Một gáo nước mất đi sao có thể làm biển lớn cạn,
Bị sa cơ, còn hận mãi cho người anh hùng!
Ông đã giữ chức Nhập Nội Tư Không, được tặng phong: Suy Trung Đồng Đức Hiệp mưu Bảo Chính Công Thần, Bình Ngô Khai Quốc Công Thần, Đại Tư Đồ, Thái Sư Bân Quốc Công, truy phong Hiển Khánh Đại Vương. Nhiều nơi trong Nước lập đền thờ ông, các triều Vua sắc phong ông là Thượng Đẳng Phúc Thần, Phúc Thần của nhiều làng; đền chính ở các nơi: Linh Cảm, xã Việt Yên Hạ, huyện La Sơn, Nghệ An. Sáo Đền (Đốc Hữu Điện), xã Song An, Vũ Thư, Thái Bình. Đền tại sách Mỹ Lâm, huyện Thọ Xuân và làng Đông Cao, Nông Cống, Thanh Hoá; đền Cồng ở làng Tiên Yên, nay là xã Quỳnh Hưng, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Trung Đẳng Phúc Thần, Phúc Thần của Ngoại Thôn, xã Y Đốn, huyện Thần Khê, nay là xã Chi Lăng, Hưng Hà, Thái Bình.
Lời án của Nhà sử học Phan Huy Chú như sau: Lê Thạch làm tướng tiên phong thường thắng, Lê Lai vì Nước bỏ mình, Lê Triện, Lê (Đinh) Lễ bày mưu lạ phá giặc đều là tướng giỏi có tiếng một thời. Tiếc rằng chết vì việc nước công nghiệp chưa trọn, so với các tướng khác được cùng với nước vui xướng thì có phần thiệt.
Bà vợ của ông là Bùi Thị Liễu, con gái quan Thái Truyền Trang Quốc Công Bùi Quốc Hưng, vợ thứ là bà Hà Thị Ngọc Dung con gái quan Thiệu Quốc Công Hà Đệ, bà Trần Thị Ngọc Huy hậu duệ của Tá Thánh Thái Sư Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, cùng 3 bà vợ thứ nữa. Sau khi ông mất, các bà vợ đều được tặng phong là Tông Cơ (Quận Chúa).
Hiện còn một số Chi phái họ Đinh là hậu duệ của Thái Sư Bân Quốc Công Đinh Lễ: Ở An Lão, xã Song An, Vũ Thư, Thái Bình (dòng Đinh Vĩnh Thái), để trông nom Đốc Hữu Điện (Sáo Đền). Ở Thọ Xuân, Thanh Hóa (thuộc dòng Đinh Trung) vẫn giữ họ Vua ban (họ Lê) là Lê Huy, Lê Minh… trông nom Từ đường họ Đinh và Lăng mộ tổ tiên tại đấy.
Ông ĐINH BỒ
Ông còn gọi là Lê Bồ, Ông dự Hội thề Lũng Nhai và Lễ tế cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn chống quân xâm lược nhà Minh do Vua Lê Lợi tổ và chức lãnh đạo. Ông đã lập được nhiều công trạng ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa, trong các trận Lạc Thuỷ, Mường Thôi, Trà Lân, Bồ Ải ... Ông đã hy sinh ở trận đánh Khả Lưu (Anh Sơn, Hà Tĩnh) do dẫm phải chông độc. Giỗ ông vào ngày 16 tháng 3 âm lịch.
Lăng mộ và đền thờ Ông tại xã Phúc Điền, Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông được tặng phong là Khai Quốc Công Thần, Thái Bảo Định Quốc Công, sau truy phong Linh Cảm Đại Vương, Trung Đẳng Phúc Thần.
Bà vợ của ông là Lê Thị Ngọc Thuận, con gái quan Thái Uý Trung Quốc Công Lê Lâm, bà được tặng phong là Quốc Phu Nhân.
Ông ĐINH LIỆT
Ông còn gọi là Lê Liệt, là cháu gọi Vua Lê Lợi bằng cậu (anh mẹ), nhiều mưu lược, giỏi võ nghệ. Ông đã dự Hội thề Lũng Nhai và Lễ tế cờ khởi nghĩa Lam Sơn, từ đầu ứng vào đội Nghĩa binh, do tình thân ruột thịt nên được hầu cận hộ vệ nhà Vua, trải leo núi trèo đèo, chống đỡ lúc gian nguy, lập được nhiều công lớn ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa; cùng với các anh và các tướng của Vua Lê Lợi tổ chức đánh thắng nhiều trận như Lạc Thuỷ, Nga Thuỷ, Mường Một, Bồ Ải, Tây Đô.
Năm Giáp Thìn (1424), Vua lấy được châu Trà Lân, thì tướng Minh dẫn quân thuỷ bộ tới. Vua sai ông Đinh Liệt đem một ngàn quân đi tắt đường giữ huyện Đỗ Giai (Hương Sơn, Hà Tĩnh). Quân Minh quả nhiên đến ải Khả Lưu, Vua chờ giặc vào trận mai phục, rồi sai ông Đinh Lễ ra đánh, ông Đinh Liệt đánh tập hậu, chém chết tướng giặc là Hoàng Thành, bắt sống Chu Kiệt, quân giặc đại bại.
Khi Vua tiến vây thành Đông Quan (Hà Nội), ông Đinh Lễ bị hy sinh ở trận My Động, Vua thương tiếc lắm, phong cho em ông là Đinh Liệt làm Nhập Nội, Thiếu Uý, tước Á Hầu.
Năm Bính Ngọ (1427), giặc Minh bị vây khốn ở thành Đông Quan, Vương Thông cầu viện, Hoàng đế nhà Minh sai An Viễn Hầu Liễu Thăng làm Tổng binh cùng các tướng dẫn 10 vạn quân, 2 vạn ngựa theo đường Quảng Tây tiến xuống ải Nam Quan (Lạng Sơn); Đại Tướng quân Mộc Thạch cùng các tướng dẫn 5 vạn quân đi đường Vân Nam xuống cửa Lê Hoa (Lao Cai).
Ông Đinh Liệt vâng mệnh Vua cùng tướng Lê Sát và các tướng khác, đem quân lên Lạng Sơn chặn địch, đánh thành Xương Giang (Bắc Giang). Ông và tướng Lê Nhân Chú đặt phục binh ở ải Chi Lăng, tướng Trần Lựu giả thua nhử giặc tới, Liễu Thăng dẫn quân đuổi theo vào trận mai phục, quân ta đổ ra đánh, chém chết Tổng Binh Liễu Thăng ở núi Mã Yên, bắt sống tướng giặc là Lý An, Thượng Thư Hoàng Phúc và Đô Đốc Thôi Tụ, diệt hơn 5 vạn tên, bắt sống 3 vạn tên giặc, đánh chiếm thành Xương Giang. Ta cho tướng giặc bị bắt, mang ấn tín cờ hiệu của Liễu Thăng lên cho Mộc Thạch xem, quân giặc hoảng loạn, quân ta truy diệt hơn vạn tên, bắt sống hơn nghìn tên giặc. Buộc Vương Thông giữ thành Đông Quan (Hà Nội) phải mở cổng thành ra hàng. Đất nước thái bình, Bình Định Vương Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế.
Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), xếp ông vào chức Thứ Thủ Quân Thiết Đột, trong số những người theo Vua từ Lũng Nhai, thì ông dự vào hàng đầu, được phong là Trung Tán Trị Hiệp Mưu Bảo Chính Công Thần, Vinh Lộc Đại Phu, Tả Kim Ngô Đại Tướng Quân, tước Thượng Trí Tự. Năm thứ 2 khắc Biển công thần, Ông xếp thứ 2 tước Đình Thượng Hầu. Năm thứ 5 được thăng Nhập Nội Tư Mã, tham dự việc triều chính. Ông cùng các tể tướng chọn đinh tráng làm lính.
Tháng 5 năm Thiệu Bình (1434), giặc Chiêm Thành vào cướp phá, Vua sai Ông thống lĩnh các đạo quân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá tiễu trừ giặc và hạ lệnh tướng hiệu: Quân nhân ra trận mà trái lệnh hoặc rút lui thì được phép chém trước tâu sau. Ông đến Hoá Châu, Vua Chiêm Thành là Bồ Đề nghe tin nước ta vô sự, vội rút quân về. Ông muốn về, gặp lúc người Man ở Hoá Châu là Đạo Thành bị tên Đạo Dụ đánh, đến xin cứu viện, Ông dẫn quân tới đánh giúp, bắt được hơn ngàn tên giặc vài chục con ngựa mang về.
Đến đời Vua Nhân Tông, Thái Hòa năm thứ 2 (1444), Ông làm Thái Phó, vì có kẻ rèm pha nên Thái Hậu Nguyễn Thị Anh bắt giam ông 4 năm, vợ con ông bị giam 6 năm, sau được thả ra. Trong đời Diêm Ninh (1454 - 1459), Ông lại được phục chức làm Thái Bảo.
Khi Lạng Sơn Vương Nghi Dân cùng bọn phản thần là Phạm Đồn, Phan Ban và Trần Năng làm việc thoán nghịch cướp ngôi, giết Vua Lê Nhân Tông và Thái hậu Nguyễn Thị Anh. Ông cùng tướng Nguyễn Xí, Lê Lăng, Lê Niệm đốc xuất các đại thần xướng nghĩa, giết nghịch đảng, đón Lê Tư Thành lên ngôi là Vua Lê Thánh Tông. Về sự việc này, trong Đinh Tộc Thế phả có ghi:
Ông Đinh Liệt được ban chức Thái Tử Thái Phó, giúp vua nhỏ là Lê Thái Tông cầm quyền. Đồng thời chỉ thị cho con cháu họ Đinh ở Đô Kỳ - Y Đốn xây dựng lực lượng để dùng vào việc bất trắc sảy ra ... Vì bà Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh là người vợ sủng ái nhất của Vua Lê Thái Tông luôn ghen ghét đố kỵ với bà vợ thứ là Ngô Thị Ngọc Giao đang mang thai bị giam lỏng tại chùa Huy Văn (Hà Nội). Ông Đinh Liệt đã bí mật đưa bà về ở Đô Kỳ - Y Đốn để sinh đẻ và lánh nạn ... Khi võng cáng bà về đến Cầu Tray, nơi tiếp giáp giữa hai huyện Duyên Hà và Thần Khê thì bà trở dạ đẻ, không thể đi được nữa ... Sợ triều đình truy đuổi làm liên luỵ đến mọi người, bà Ngọc Giao cho thắp đèn hương khấn Trời đất cho được sinh nở ... Bài văn khấn vẫn truyền tụng đến ngày nay:
Có phải con mẹ, con cha,
Thì sinh ở đất Duyên Hà - Thần Khê
................
Nhược bằng bác mẹ chẳng sinh,
Thì quăng ra đất Vạn ninh cho rồi. (Vạn ninh là bãi tha ma).
Lời khấn vừa dứt, bà sinh được một Hoàng tử, tên là Lê Tư Thành, sau này là Hoàng đế Lê Thánh Tông ... Bà cho Hoàng tử bú lúc mới sinh ở làng Sâm, sau được dân làng lập đền thờ gọi là đền Bà Vú Sữa (đền Sâm), những người hiếm muộn con, những bà mẹ thiếu sữa đến thỉnh cầu rất linh nghiệm.
Bà Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Giao là con gái bà Đinh Thị Ngọc Kế và ông Ngô Từ; bà Đinh Thị Ngọc Kế lại là con gái ông Đinh Lễ và bà Trần Thị Ngọc Huy, bà Ngọc Kế là con nuôi của ông Đinh Liệt. Sau Vua Lê Thánh Tông thực hiện ý nguyện của mẹ, lệnh cho xây dựng hai ngôi đền: Một ngôi ở Đô Kỳ, gọi là Dụ Phúc Điện; và một ngôi ở An Lão (xã Song An, Vũ Thư, Thái Bình) gọi là Đốc Hữu Điện (Sáo Đền), thờ bà Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Giao, cho tổ họ Đinh và họ Ngô thờ phối hưởng. Đền Quốc Mẫu xưa ở Đô Kỳ đã bị tháo rỡ, chỉ còn lại hai cây thị cổ thụ, trồng từ thời Vua Lê Thánh Tông, đến nay vẫn còn xanh tốt. Sau này, Nhà chùa và nhân dân Đô Kỳ dựng lại ngôi đền mới.
Tháng 6 năm Quang Thuận thứ nhất (1460), ông Đinh Liệt được tiến phong chức: Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Nhập Nội Thái Phó, Á Quận Hầu. Bài Chế của Vua Lê Thánh Tông, đại lược rằng:
“Trẫm nghĩ Nước nhà gặp biến phi thường, họa không phải nhỏ. Kẻ Thần tử lập lên công lớn, báo đền phải hậu đó là công luận há phải ơn riêng.
Xét…(Lê Liệt)…đây. Sớm đem tình ruột thịt, ra ứng hội phong vân, tiếng kèn tiếng sáo xướng họa, anh em khó biết ai hơn ai kém. Kế ở Miếu Đường, mưu ở biên cương, vừa tướng văn vừa tướng võ. Khi tiến khi lui với Nước, cùng vui cùng lo. Lúc nguy hiểm, lúc bình thường vẫn trọn một tiết. Chịu cố mệnh hai triều, Ngươi nhiều công giúp đỡ. Lại được ký thác cho việc cầm cân, để thêm trọng vọng.
Công lao và chức vị càng to, nơi xa gần ai cũng đều thấy. Dẫu lời rèm pha như tiếng nhặng xanh vo ve. Nhưng biết rằng ân đức không có vết xấu, vẫn đi dép đỏ ung dung. Vì trời muốn cho Nước trị bình, mà lẽ phải đâu có khuất mãi. Huấn chi Nước mới gặp cơn vận bĩ, hốt nhiên họa loạn sinh ra trong nhà. Khen cho người trung trinh của người làm cột đá cho thời bấy giờ. Một sớm xướng lên việc phục thù, chấn chỉnh lại kỷ cương nhà Vua; Ba quân cùng hết lòng giúp sức dẹp yên kẻ ác.
Làm cho Vua được tốt, nên thưởng cho quan to. Được vinh hạnh mở Phủ, cho lên ngôi Sư Thần. Giữ việc Quân Quốc là trách nhiệm long trọng, cho lên Quận Hầu là tước phẩm vẻ vang. Để lêu ra công to lớn, để tỏ sự đãi ngộ rất hậu.
Than ôi ! Quyết định sách lớn, giúp việc lớn, thực xưa nay là chuyện khó, lấy đức có một, giúp người có một, mong trước sau không thay đổi.
Kính theo mệnh Trẫm là phúc tốt cho Ngươi ”
Sau cải phong là Lân Tường Hầu, tháng 10 được phong Lân Quốc Công. Tháng 12, Vua sai ông cùng Lê Lăng đi đánh giặc Man là họ Cầm, tiến vị lên Thái Sư Phụ Chính.
Năm đầu Hồng Đức (1470), Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, Ông sung chức Chinh lỗ Tướng quân (Thống tướng), cùng tướng Lê Niệm đốc xuất 20 vạn quân, thuyền đi trước, phá được thành Đồ Bàn, bắt Vua Chiêm Thành là Trà Toàn đem về Kinh đô.
Năm thứ 2 (1471) Ông mất vào ngày 13 tháng 12 âm lịch, hưởng thọ 82 tuổi. Triều đình truy phong tước Trung Mục Đại Vương.
Ông là người có công đầu mở nước (Khai quốc Nguyên huân) phò Vua Lê Lợi đánh thắng quân xâm lược nhà Minh giành quyền độc lập tự do cho Nước nhà, trải thờ bốn triều vua, lại là Công Thần Trung Hưng số một phò Vua Lê Thánh Tông lên ngôi, chức vị và đức vọng cao vót. Từ năm Quang Thuận Thứ 6 (1465) trở đi, Ông giữ chức Đại Tư Không, Thái Sư Phụ Chính (Tể tướng, Thủ tướng) khoảng 10 năm. Quyết đoán những mối ngờ lớn, quyết định những việc bàn lớn của Nhà nước, được Vua rất tin cậy, trong triều ngoài quận rất tôn trọng.
Ông được phong là Suy Trung Đồng Đức Minh Nghĩa Tán Trị Hiệp Mưu Tĩnh Nạn Kiệt Tiết Dực vận Bảo Chính Tuyên Lực Công Thần, Bình Ngô Khai quốc Công Thần, đặc tiến Khai phủ Nghi Đồng Tam Ty, Nhập Nội Kiểm Hiệu, Bình Chương Quân Quốc Trọng sự, kiêm Thái Sư, Thượng Trụ Quốc, Lân Quốc Công; truy phong Trung Mục Đại Vương; được sắc phong Thượng đẳng Phúc Thần thờ tại sách Mỹ Lâm, Thọ Xuân và làng Đông Cao, Nông Cống, Thanh Hoá; Đền Sáo (Đốc Hữu điện) xã Song An, Vũ Thư, Thái Bình; đền Cồng ở làng Tiên Yên, nay là xã Quỳnh Hưng, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Trung Hưng Trung Đẳng Phúc Thần, Phúc Thần làng Đún Ngoại. Lăng mộ ông tại Lam Sơn, Thanh Hoá.
Vua Lê Thánh Tông có thơ khen ông Đinh Liệt (dịch nghĩa):
Chi Lăng bắt Liễu (Thăng) nổi danh vang.
Trải bốn đời Triều, sức đảm đang,
Đã dẹp tôi gian, thanh cửa tía.
Lại tôn con Thánh nối Ngôi vàng,
Đức Y Công Bột, đường trung nghĩa.
Khoán sắt luân tục cửu trường,
Bành gác đình đài, trời giáng phúc,
Lấy sang già luận nổi trăm đường.
Vua Lê Thánh Tông lại có thơ viếng ông Đinh Liệt (dịch nghĩa):
Dẹp yên bốn bể mới phóng tay.
Lệ bộ đài gương, khói ám mây.
Tể Tướng bếp tàn, mai lạnh vóc.
Tướng quân doanh liễu trau mày,
Phong lưu phú quý, muôn đời thấy.
Sự nghiệp công danh, bốn bể hay.
Thương lắm tiếc nhiều, bao kẻ khóc.
Miếu Đường hồ dễ lấy ai thay.
Nhà Sử học Phan Huy Chú đã xếp ông đứng đầu trong 10 Danh tướng giỏi nhất thời Hậu Lê.
Vợ của ông là bà Đào Thị Ngọc Phú được phong là Quốc Phu Nhân.
Ông ĐINH PHÚC DIÊN
Ông là hậu duệ đời thứ 6 của ông Đinh Liệt và là hậu duệ đời thứ 9 của ông Đinh Thỉnh. Vợ là Quận Chúa.
Ông làm quan dưới triều Vua Lê Minh Tông, Lê Thần Tông; Chúa Trịnh Tùng và Chúa Trịnh Tráng, lập được nhiều công lớn trong công cuộc đánh dẹp nhà Mạc, đã từng lập căn cứ ở Cẩm Giàng, Hải Dương.
Giữ chức Thiếu Uý, Tả Đô Đốc Đông Quân, được tặng phong Tán trị Công Thần, Dương Quận Công; được Chúa Trịnh Tráng tặng thưởng Kim bài (Thẻ vàng).
Trong Bộ từ điển Thái Bình có ghi: “ Nhân sự biến Trịnh Xuân mưu sát Trịnh Tráng, Mạc Kính Khoan từ Cao Bằng về đánh Gia Lâm (Hà Nội), ông đem ấn Đông Quân Tả Đô Đốc chốt ở Cẩm Giàng ( Hải Dương) hội với tiên phong Đặng Thế Tài, hậu quân Nguyễn Danh Thế vây đánh Gia Lâm. Mạc Kính Khoan thua (phải) chạy về Cao Bằng…
Năm 1644, Trịnh Sầm trấn thủ Hải Dương, làm phản, Đông Quân Tả Đô Đốc hội quân cùng Thái uý Trịnh Tráng vây đánh Hải Dương. Sầm chạy đi Ninh Giang, ông truy đuổi theo, bắt được…. Từ đấy ông đứng đầu hàng tướng, giúp Vua Chân Tông giữ vùng Hải Đông, sau được vinh phong "Tán trị Công thần". Đô vương Trịnh Tráng phong cho Thẻbài bằng vàng, với lời tâm huyết của An Đô Vương "Ban thẻ để làm di tích truyền đời, phú quý hoạn nạn cùng chia sẻ mãi mãi". Khi mất, được phong làm Phúc thần Ngoại Thôn. Đời sau suy tôn là Trung Hưng Tôn thần”.
Năm 1627, Ông đã xây dựng Từ đường họ Đinh ở Ngoại Thôn, xã Y Đốn và cắm các Khu cấm địa để làm lăng mai táng các bậc Công thần họ Đinh. Khi về trí sĩ, Ông ở Sáo Đền, An Lão (nay là xã Song An, Vũ Thư, Thái Bình), Lăng mộ ông bà đều để tại đấy. Năm Khải Định thứ 9 (1924), Triều Nguyễn sắc phong Ông là Trung Hưng Tôn Thần, Phúc Thần của Ngoại Thôn, xã Y Đốn, huyện Thần Khê, nay là xã Chi Lăng, Hưng Hà, Thái Bình.
CỘI NGUỒN HỌ ĐINH
Ở XÃ CHI LĂNG HUYỆN HƯNG HÀ,
XÃ MINH TÂN VÀ LÔ GIANG HUYỆN ĐÔNG HƯNG, THÁI BÌNH
Dòng họ Đinh ở các xã Chi Lăng, huyện Hưng Hà, xã Minh Tân và Lô Giang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, là Dòng dõi của Thái Sư (Thủ tướng), Lân Quốc Công Đinh Liệt, được truy phong tước Trung Mục Đại Vương.
Thuỷ tổ (Đời thứ nhất) ông Đinh Thỉnh, ở sách Thuý Cối (sau đổi là sách Mỹ Lâm), huyện Lương Giang (sau đổi là huyện Thuỵ Nguyên, nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá; cũng có tài liệu ghi là xã Minh Tiến, huyện Ngọc Lặc, Thanh Hoá). Vợ là bà Phạm Thị Gái, con gái bà Sang ở làng Sang (nay là xã Quỳnh Châu, Quỳnh Phụ, Thái Bình), bà là con nuôi ông họ Phạm ở Đô Kỳ, huyện Thần Khê, ông bà sinh được một người con trai.
Cuối thời Trần, có thời gian ông Đinh Thỉnh dậy học ở thôn Phú Lãng Đông, vùng đất Nông Kỳ (tên cổ của sông Luộc). Do có lòng thiết tha yêu nước, ông đã cùng con trai là Đinh Tôn Nhân rời Đô Kỳ về quê cũ, ông ứng nghĩa dưới cờ nghĩa của Trần Quý Khoáng, sau vào Lam Sơn giúp Vua Lê Lợi trong công cuộc chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh. Sau chiến thắng quân Minh, ông được Vua Lê Lợi truy phong tước Mục Huệ Đại Vương.
Cao tổ (Đời thứ 2) ông Đinh Tôn Nhân, có sách viết là Đinh Thanh Nhân, là Đinh Lan. Vợ là bà Lê Thị Ngọc Vồi (có sách viết là Vị), em gái Vua Lê Lợi, bà được tặng phong là Quốc Thái Phu Nhân, ông bà sinh được ba người con trai. Ông đã theo giúp Vua Lê Lợi trong công cuộc chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh, ông được tặng phong tước Thái Uý, Hùng Quốc Công.
Con ông Đinh Tôn Nhân là các ông Đinh Lễ, Đinh Bồ, Đinh Liệt (Đời thứ 3), đều là những bậc anh hùng hào kiệt, đã dự Hội thề Lũng Nhai và Lễ tế cờ khởi nghĩa Lam Sơn, theo cậu (anh mẹ) là Vua Lê Lợi khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh; lập nhiều công lớn, đều là những bậc Bình Ngô Khai Quốc Công Thần, được Vua ban Quốc tính (họ Vua), được truy phong tước Đại Vương. Các bà vợ của ông Đinh Lễ được tặng phong là Quận Chúa. Bà vợ của ông Đinh Bồ và Đinh Liệt được phong là Quốc Phu Nhân. Công tích của ba ông rủ xuống muôn năm (như đã nêu ở phần trên).
Con ông Đinh Liệt (Đời thứ 4):
Con trai trưởng là ông Đinh Công Đột. Vợ là bà Lê Thị Ngọc Đường, bà là Công Chúa con gái Vua Lê, ông bà sinh được 4 người con trai.
Ông làm quan dưới triều Vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và Vua Lê Thánh Tông, chức Thị Lang Bộ Binh, sau thăng làm Thượng Thư Bộ Binh (Bộ trưởng), vinh phong là Tán Trị Công Thần kiêm Tông Nhân Phủ TôngNhân Lệnh Tả Tông Nhân, tước Văn Thắng Hầu. Ông bà thiên cư từ sách Mỹ Lâm (Thọ Xuân) ra thôn Đống Cải, xã Thanh Nê, nay là thôn Đông Cao, xã Trung Chính, Nông Cống, Thanh Hoá.
Trưởng nữ bà Đinh Thị Ngọc Mai.
Con trai út là ông Đinh Công Hiến. Ông làm quan dưới các triều Vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và Lê Thánh Tông, từng theo Vua đi đánh dẹp Bồn Mang, Chiêm Thành. Giữ chức Trần Tứ Sương Đô Chỉ Huy Sứ, hàng quan Thượng phẩm, Thiếu Bảo, được ban Dương Thác Phốc Đầu Cấp, Thái Thường Thời Ký Cập, tước Triệu Xương Bá.
(Do khuôn khổ hạn hẹp và tiện để theo dõi, từ Đời thứ 4 chỉ trích ghi Trực hệ của Chi Phái họ Đinh ở các xã Chi Lăng, Minh Tân, Lô Giang - Thái Bình).
Con ông Đinh Công Đột (Đời thứ 5):
Con trai trưởng ông Đinh Công Địch. Vợ bà họ Ngô, ông bà sinh được 2 người con trai. Ông là quan dưới triều Vua Lê Thánh Tông và Vua Lê Hiến Tông, đã phò giá Vua đi đánh Chiêm Thành, giữ chức Đô Đốc Phủ Tả Đô Đốc, được vinh phong là Triêu Liệt Đại Phu. Mộ ông để ở thôn Đống Cải, xã Đông Cao, Nông Cống, Thanh Hoá. Con cháu hậu duệ cũng ông ở đấy.
Con trai thứ 2 ông Đinh Công Minh. Vợ là Lê Thị Ngọc Mại, ông bà sinh được hai người con trai. ông là quan dưới triều vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, giữ chức Tả Thị Lang Bộ Công, rồi Thượng Thư Bộ Công (Bộ trưởng), phong tước Lương Nghĩa Hầu.
Con trai thứ 3 ông Đinh Tiến Lộc. Vợ là bà Lê Thị Ngọc Chân, ông bà sinh được 1 người con trai. Ông là quan dưới triều vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, giữ chức Đô Trấn Nghệ An doanh, phong tước Triêu Dương Hầu.
Con trai út ông Đinh Khắc Thận. Vợ họ Trịnh, ông bà sinh được 2 người con trai. Ông làm quan dưới triều Vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, giữ chứ Tiền Nghĩa Doanh, phong tước Mỹ Lâm Hầu.
Con ông Đinh Công Minh là ông Đinh Công Hữu (Đời thứ 6), ông bà sinh được một con trai, ông giữ chức Đô Tổng Binh Đồng Tri.
\Con của ông Đinh Công Hữu là ông Đinh Phúc Vận (Đời thứ 7), ông bà sinh được một con trai. Ông làm quan dưới triều Vua Lê Anh Tông, Lê Thế Tông và Chúa Trịnh Tùng, có công đánh dẹp nhà Mạc, thu phục Kinh sư, được thưởng Kim bài (Thẻ vàng); được phong là Minh Nghĩa Kiệt Tiết Công Thần, Thái Tể Nam Quận Công, sau trấn giữ luỹ Việt Yên (Hưng Hà, Thái Bình). Khi trí sỹ, ông về xã Hoàng Mỹ (làng Hò, xã Thống Nhất, Hưng Hà).
Con ông Đinh Phúc Vận là ông Đinh Thừa Cận (Đời thứ 8). Vợ là bà Trịnh Thị Ngọc Phụ, bà được phong là Quận Phu Nhân, là con gái quan Thái Uý Liệt Quốc Công Trịnh Khả, ông bà sinh được hai người con trai.
Ông làm quan dưới triều vua Lê Anh Tông, Lê Thế Tông và Chúa Trịnh Tùng, theo cha đi đánh giặc, tiễu trừ nhà Mạc, lập nhiều công lớn, giữ chức Thái Tể, được tặng phong Dương Vũ Uy Dũng Tán Trị Công Thần, tước Thuý Quận Công. Khi về trí sĩ, có thời gian ông ở Sáo Đền, An Lão, Tháí Bình. Lăng mộ ông bà để tại làng Hò, xã Hoàng Mỹ, huyện Duyên Hà, nay là xã Thống Nhất, Hưng Hà, gọi là Lăng Thuý Quận Công. Vì đã từ lâu không có liên hệ với nhau, nên chưa ghi chép được con cháu họ Đinh ở làng Hò, xã Thống Nhất, Hưng Hà, Thái Bình vào Đinh Tộc Thế Phả.
Con ông Đinh Thừa Cận (Đời thứ 9):
Con trai trưởng là ông Đinh Phúc Diên. Vợ là Quận Chúa, ông bà sinh được một con trai.
Ông làm quan dưới triều Vua Lê Minh Tông, Lê Thần Tông và Chúa Trịnh Tùng, Chúa Trịnh Tráng, lập được nhiều công đánh dẹp nhà Mạc, Giữ chức Thiếu Uý, Tả Đô Đốc Đông Quân, được tặng phong Tán Trị Công Thần, Dương Quận Công, tặng thưởng Kim bài (Thẻ vàng).
Năm 1627, ông đã xây dựng Từ đường họ Đinh ở Ngoại Thôn, xã Y Đốn và cắm các Khu cấm địa để làm Lăng mai táng các bậc công thần họ Đinh. Ông được triều Nguyễn, năm Khải Định thứ 9 (1924) sắc phong là Trung Hưng Tôn Thần, Phúc Thần làng Y Đốn, huyện Thần Khê, phối hưởng với Thành Hoàng làng.
Con trai út là ông Đinh Phúc Nghị. Ông ra ở Hàm Giang, nay là Hàn Giang, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương.
Con ông Đinh Phúc Diên là Ông Đinh Phúc Tiến (Đời thứ 10). Bà vợ quê ở Cẩm Giàng, Hải Dương, ông bà sinh được 3 con trai. Ông làm quan dưới triều Vua Lê Thần Tông và Hoằng Tổ Dương Vương Trịnh Tạc, đóng ở Hàm Giang (tức Hàn Giang, Cẩm Giàng, Hải Dương), làm chức Chánh Đội Trưởng, Tiền Cai Quản, tước Khuông Cầu Hầu.
Con ông Đinh Phúc Tiến (Đời thứ 11):
Con trai trưởng là ông Đinh Phúc Tuyển, ông được phong tước Toản Vũ Hầu. Ông bà sinh được 3 người con trai.
Con trai thứ là ông Đinh Phúc Đạt, ông bà sinh được một con người trai. Ông làm quan dưới triều Vua Lê Hy Tông, Dụ Tông và Chúa Trịnh Căn, Trịnh Cương, có công đánh Mạc, làm chức Chánh Đội Trưởng, tước Phan Lộc Hầu. Con của ông là Đinh Văn Chất tước Hầu, cháu của ông là Đinh Văn Giám tước Bá; đều làm quan, có một chi phái họ Đinh là hậu duệ của ông hưởng lộc điền ở Hàn Giang, Cẩm Giàng, Hải Hương.
Con trai út là ông Đinh Phúc Liên, ông bà sinh được 3 người con trai. Ông làm quan dưới triều Vua Lê Dụ Tông, Chúa Trịnh Căn và Chúa Trịnh Cương, có công đánh giặc dẹp Mạc, được phong tước Trí An Hầu. Ông đã tu sửa Từ đường họ Đinh. Mộ ông để tại lăng Công thần họ Đinh ở Ngoại Thôn, xã Y Đốn.
Trong quyển Đại Việt Thông sử của Lê Quý Đôn có ghi rõ: "... Con cháu Phúc Liên ở riêng ra tại xã Y Đốn, huyện Thần Khê ". Ông Lê Quý Đôn cũng cho biết thêm: "Dòng dõi Đinh Liệt còn lại một chi ở xã Đội Phục, huyện Nông Cống, đều sinh con đẻ cái rất đông".
Trong Đinh Tộc Thế Phả cũng có ghi: “ ... Con cháu của các ông Đinh Thế Đỉnh, Đinh Điển, Đinh Nhi, ... Đinh Nhân Thọ, Đinh Công Quy, Đinh Công Nham ... Nhiều con cháu sau này đã đổi chữ lót thành chữ " Bá " đều lấy các cụ Đinh Liệt là thuỷ tổ ... Do hoàn cảnh chưa tập hợp lại được, nên từ đời thứ 10, 11 trở đi không ghi chép tiếp đầy đủ được con cháu các ông nói trên và con cháu mang dòng họ " Đinh Bá " ở Đinh Tộc Thế Phả này được”.
Con ông Đinh Phúc Liên là các ông Đinh Cảnh, Đinh Sâm, Đinh Phúc Hồ (Đời thứ 12).
Con ông Đinh Sâm là ông Đinh Phúc Tín (Đời thứ 13).
Con ông Đinh Phúc Tín là ông Đinh Nhân Hậu (Đời thứ 14).
ông Đinh Nhân Hậu sinh được 3 người con trai, là ông Tổ chung của 3 Phái dòng họ Đinh ở xã Y Đốn, tổng Y Đốn, huyện Thần Khê cũ, tức là các xã Chi Lăng, Minh Tân, Lô Giang - Thái Bình, ngày nay.
Con ông Đinh Nhân Hậu (Đời thứ 15):
Phái thứ 1 (Trưởng): Ông Đinh Thuần, ông giữ chức Huyện Thừa huyện Nam Chân, Nam Định, ông bà sinh được 3 người con trai, ông là Ông tổ của Phái thứ nhất, con cháu hậu duệ của ông phần lớn ở xã Chi Lăng.
Phái thứ 2: Ông Đinh Thời, ông sinh được 4 người con trai, ông là Ông tổ của Phái thứ 2, hậu duệ của ông phần lớn ở xã Minh Tân và Lô Giang, huyện Đông Hưng, Thái Bình.
Phái thứ 3: ông Đinh Nghiêm, ông sinh được 4 người con trai, ông là Ông tổ của Phái thứ 3, con cháu hậu duệ của ông chủ yếu ở thôn Trần Phú, xã Chi Lăng, Hưng Hà.
Từ đời thứ nhất đến đời thứ 15, họ Đinh ở Đô Kỳ - Y Đốn liên tục có người làm quan trong triều, đã đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Do đó, đã có nhiều người được phong chức tước cao, (chỉ mới kể những người ghi chép được trong Đinh Tộc Thế Phả này): Bốn vị được phong tước Đại Vương. Hai vị được phong tước Quốc Công. Ba vị được phong tước Quận Công. 24 vị được phong tước Hầu. Hai vị được phong tước Bá.
Kể từ Hội thề Lũng Nhai giúp Vua Lê Lợi khởi nghĩa đánh thắng quân Minh xâm lược đến đời thứ 16, họ Đinh ở Đô Kỳ - Y Đốn đã luôn cùng họ Lê gắn bó với vận mệnh đất nước. Đến khi Nguyễn Phúc Ánh lên làm Vua ... Trong lúc khó khăn nguy hiểm, con cháu họ Đinh ở Y Đốn đổi chữ lót từ chữ "Phúc" ra chữ "Danh" để tránh sự nhòm ngó của thế lực đương thời.
Giặc Pháp sang xâm lược nước ta, họ Đinh ở Đô Kỳ - Y Đốn đã hưởng ứng Phong trào Cần Vương, cùng với những người yêu nước khác đứng lên khởi nghĩa chống quân Pháp xâm lược, như cuộc khởi nghĩa của ông Đinh Khắc Nhưỡng (Đốc Nhưỡng) ở Đô Kỳ.
Từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, theo tiếng gọi của Đảng và Chính Phủ, con cháu họ Đinh ở các xã Chi Lăng, Minh Tân và Lô Giang, đã và đang phát huy truyền thống bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhiều người con cháu họ Đinh đã có mặt trên tiền tuyến chống quân xâm lược, 16 người là Liệt sỹ hy sinh cho đất nước. Trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá và xã hội; nhiều người con trong dòng Họ đã tham gia công tác Đảng và chính quyền, từ Trung ưng đến địa phương, là cán bộ trung cao cấp, giáo sư, tiến sĩ, sỹ quan, kỹ sư, bác sỹ, giám đốc, doanh nhân, giáo viên và những người lao động giỏi ... đã có nhiều cống hiến tốt đẹp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta.
BAN QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ
TỪ ĐƯỜNG XÃ CHI LĂNG