ĐỜI THỨ HAI
Đinh Trung, Đinh Huệ, Đinh Vĩnh Thái đều phụ tá cho con trưởng vua Thánh Tông là Hiến Duệ Tông hoàng đế.Đinh Vĩnh Thái thi đỗ tiến sỹ năm Hồng Đức thứ 3 (1472), làm thừa sứ ở Thuận Hoá, sống ở quê Tổ Mẫu Bà tại chợ Công Càn, xã Nhượng Bạn, huyện Nha Khoa, Nghệ An. Mất ngày 13 tháng 2.
Truy tặng: Hành khiển tuần…(1) Kỳ la hải môn kiêm khu mật sứ. Xưa Đinh Lễ, Đinh Bồ cùng Nguyễn Xí, Bùi Bị vâng mệnh đi đánh giặc Ngô(1) và bọn ngịch thần là Đỗ Cảnh Tuân ở các nơi thuộc Nghệ An. Đêm đó chia quân trên đường tới châu An Ấp, Đinh Lễ hành quân đến núi Thiên Nhẫn, qua xã Bạch Quyết Hạ bị địch bắt đưa về thành Đông quan, ông bất khuất, hiên ngang như tùng bách.
Vì giang sơn mà chết trong chiến trận, nên được truy phong là: Uy linh đại vương. Con cháu đều an cư ở xã Hoằng Công, huyện Đỗ Gia (đổi là huyện Hương Sơn) phủ Thiên Lộc (đổi là phủ Đức Quang ) Kiêm Tri diện đường Thái uý Thanh Quốc công Bắc Hà lộ đại tri phủ, Vũ công hầu tả kiểm điểm…………………(2)……………………………………………………………………………………(3)………Đinh Công Đột,
Đinh Công Hiến đều phụ tá đức Thái Tổ Cao Hoàng đế, trải các triều đại từ Thái Tông Văn Hoàng đế, được theo hộ giá tiến đánh diệt trừ bọn giặc Man là Bồn Man, Chiêm Thành, đều có công lao với nước được vinh thăng: Minh nghĩa Tán trị công thần. Đinh Công Đột làm quan tới chức Thượng thư Bộ binh, Hữu thị lang tước Hầu;
Đinh Công Hiến được thăng chức : Thiếu bảo, tước Hầu.
Đinh Công Đột, tên huý là Quán, cúng với Đinh Công Chí làm quan tới chức Thượng thư bộ Binh, tả thị lang, tước hầu. Đinh Công Chí còn kiêm chức Tông nhân lệnh tả tông chánh, Văn tháng hầu. Vợ là Lê Thị Chỉnh. Sinh ông Đinh, huý Chân ở Tả Thiêm, sinh ngày 13 tháng 11. Di cư đến thôn Đống Cải, xã Thanh Nê, huyện Nông Cống làm giám thủ từ đường.
Các ngày sinh, ngày giỗ, tứ mùa, bát tiết, các xứ lăng mộ cùng các trang trại, ruộng thế nghiệp, ruộng tế ở các tổng xã. Lăng mộ ở xứ Đồng Miếu, thôn Đống Cải, xã Thanh Nê rộng hơn 2 mẫu. Đinh Chân giỗ ngày 23 tháng 12.
Quận chúa Lê Thị Ngọc Đường lăng mộ tại hương Lam Sơn, giỗ ngày 3 tháng 4.
Đinh Công Chân sinh 5 trai: trưởng nam là Đinh Công Chí, thứ nam là Đinh Công Địch, Đinh Công Minh, Đinh Tiến Lộc và con út là Đinh Khắc Thận.
Trước đây Đinh Công Hiến giữ chức Thiếu Bảo tước hầu, lăng mộ táng tại châu Mỹ Lâm, giỗ ngày 17 tháng 3, Vợ là bà họ Lê, cũng chôn ở châu ấy, giỗ ngày 14 tháng 10. Sinh hạ 2 trai: Đinh Nhân Thức, Đinh Nhân Tuấn.
* Chú thích: 1- Ở đây gia phả nhầm.Thái Hoà là niên hiệu của Lê Nhân Tông. Có lẽ ông mất năm Hồng Đức thứ 5 (1474). 2,3 - Trong gia phả chụp không rõ nên N.D để trống.
ĐỜI THỨ 3
Đinh Công Địch, Đinh Công Minh, Đinh Tiến Lộc, Đinh Khắc Thận, Đinh Nhân Thực, Đinh Nhân Tuấn đều phụ tá đức Thánh Tông Thuần hoàng đế, theo giúp phò giá đi đánh giặc Chiêm Thành nhiều công lao được vinh thăng: Tán trị công thần.Đinh Công Địch là Triều liệt đại phu, Đô Đốc phủ Tả đô đốc.
Đinh Công Minh làm quan đến chức Thượng thư Bộ Công Tả thị lang, tước Lương Mỹ Hầu.
Đinh Tiến Lộc thăng Tham đốc, Triêu dương hầu.
Đinh Khắc Thận làm Tiền nghĩa danh, Mỹ Lâm hầu.
Đinh Nhân Thực thăng: Đô tổng binh sứ, Mỹ Toàn hầu.
Đinh Nhân Tuấn thăng: Sùng Thiện hầu.
Lăng mộ Đinh Công Địch ở thôn Đống Cải, xã Thanh Nê, vợ cả họ Ngô, tang tại xứ Na Sơn, giỗ ngày 15 tháng 8. Sinh hạ 2 trai: Đinh Công Mệnh, Đinh Công Quang.
Đinh Công Minh lấy vợ người hương Lam Sơn , họ Lê, huý Ngọc Mạo, lăng mộ tại Lam Sơn, giỗ ngày 18 tháng 3. Cụ bà họ Lê giỗ ngày 17 tháng 2, sinh ra
Đinh Công Hựu. Lăng mộ Đinh Tiến Lộc ở xứ Dương Già trùm, ở Đống Cải, giỗ ngày 18 tháng 3. Vợ ca họ Lê, hiệu Ngọc Chân, mộ chôn ở xã Nhân Võng, giỗ ngày 16 tháng 8, sinh ra Đinh Công Hiếu.
Đinh Khắc Thận chức Tiền Nghĩa doanh, tước Mỹ Lâm hầu. Lăng mộ ở thôn Đống Cải, gọi là sứ Cồ Sâm, giỗ ngày 3 tháng 4. Vợ cả họ Trịnh, lặng mộ tại thôn Đông Bình, giỗ ngày 8 tháng 7. Sinh hạ 3 trai: Đinh Công Tụ, Đinh Công Trinh, Đinh Công Xuân (Thung).
Trước Đinh Nhân Thực di cư đến xã Thạch Nội, huyện Ngọc Sơn, lăng mộ ở bản xã, giỗ ngày 16 tháng 4. Sinh con cháu nối dõi ở xã ấy.
Đinh Nhân Tuấn trước Sùng Thiện hầu, di cư đến xã Đô Kỳ huyện Thần Khê, sinh con cháu đều ở các xã Đô Kỳ, Ỷ Độn.