GIA PHẢ HỌ ĐINH (Phần 1) Xã Thanh Khai, huyện Thanh Chương, Nghệ An

dinhxuanba

Moderator
Staff member
GIA PHẢ HỌ ĐINH Phần 1
(Bản tiếng Việt)
Đinh xuân Hường sưu tập và hiệu đính

Xã Thanh Khai, huyện Thanh Chương, Nghệ An

Trộm nghĩ cây muôn lá ngàn cành cùng chung cội rễ,nước ngàn giòng muôn lạch cùng chung một nguồn .Vạn vật còn thế huống chi con người, có sinh chưng có tổ. Tự ngàn xưa họ Đinh ta tổ tiên ta gây dựng ở đât Ninh bình, huyện Gia viễn, động Hoa lư, dòng giống Đinh Tiên Hoàng. Sau đó tiên tổ ta tức Hùng Duệ Đại Vương di cư đến ở xứ Sơn nam ,phủ Thường tín, huyện Thượng phúc ,Tæng Phượng Dực , xã Phượng vũ ,tỉnh Hà đông .nay nơi ấy còn con cháu đông đúc phồn thịnh. Tổ ta sinh ra bốn con trai. Vị con cả giữ chức thống lĩnh Thanh hoa đạo, Tuyên Đức hầu, thừa hành công vụ đến Nghệ an, huyện Đông thành sinh ra tổ chín đời của họ ta (chức Thuỷ đạo tiên phong ) cùng Thái phó Tấn quốc công điều binh đến sông Gang . Sinh hạ tổ tám đời, thống lĩnh chức thuỷ bộ đạo tiên phong , lấy vợ làng Văn giai sinh ra tổ bảy đời sáu đời, đều là kẻ hùng trưởng một phương ,thọ bảy tám mưoi tuổi . Hiện nay phần mộ còn đầy đủ nhưng ngày giỗ không rõ. Ta sinh sau nhớ về cội nguồn, cùng nhánh dòng ấy sợ càng xa càng càng sai càng sót; nhân có người cùng họ,dòng chi thứ, là quan Chiêm sự Liên trung hầu có để lại quyển sổ bèn làm ra quyển gia phả này. Nó không được chi tiết từ đầu, nhưng cũng để đời sau theo đó để biết việc trước. Đến triều Minh mệnh thứ năm(1825 ), hạ tuần mùa đông làm lời tựa .Chi thứ ở thôn Quỳnh đôi, cử nhân khoa Ât dậu, giáo thụ phủ Tĩnh gia ,thăng đốc học Thanh hoá, Đinh nguyễn Sưởng làm bài tựa. Con trai Đinh hiên Khoát , tú tài khoa Ât dậu viết(viết bài tựa chứ không phải viết gia phả ,người viết gia phả là Nguyễn trọng Cán tức Nguyễn trọng Liên ,con thứ 5 ông Đinh hữu Bài ,có một thời gian theo bác họ là Thanh trung hầu đi học ở Kinh bắc ) . Năm Kỷ mùi, (1790 )ngày mùng một tháng năm, quan đại phu viện chiêm sự,chức thiếu chiêm sự, kiêm chưởng sự , vụ nội tán thược sự , Liên trung hầu làm di chúc để lại cho vợ là Nguyễn thị Khoát, cháu là Đinh hữu Dực và cả họ biết . Than ôi! Người có tổ như cây có rễ. Nhà có gia phổ như nước có sử. Vì vậy nên ta đã làm một bản di chúc thuật lại công đức tổ tông, lịch sử các chi ngành làm chỗ dựa cho các đời sau noi theo . Nguyên cha mẹ ta sinh ra trai gái mười một người. Ta là con thứ, sinh năm Nhâm tí (1732 ), tháng mười một ngày mồng một, giờ tí. Mới được 10 tuổi chẳng may cha mẹ mất sớm .Vào đời Cảnh Hưng nhà Lê ( 1740-1786 ) , lúc 13 tuổi theo ông bác tức Thanh trung hầu đến ở thị trấn xứ Sơn Nam, vừa may gặp quan chiêm sự Tuyển trung tử người Kinh Bắc xã Nội Duệ. Ông nhận ta làm con nuôi và đem về xứ ấycho đi học. Đến khi ta mười sáu tuổi ông cho ta làm chức chức Cai hợp đặt tên là Cai đạc(làm nghề đo đạc). Chẳng may cha nuôi mất, ta ở với mẹ nuôi . Chưa hết tang, ta được gặp quan tri phủ Thường tín , người xứ Sơn Nam ,huyện Thượng Phúc , xã Phượng Vũ ,Thôn Phượng Dực , giáp Đồng Thọ đến đặt lễ phúng điếu, gặp ta có lòng yêu mến và hỏi tên họ quê quán. Ta trình với ông rằng: ta vốn người Nghệ an, phủ Anh Đô, huyện Nam Đàn, xã Hoa ổ, tổng Hoa lâm, làng Văn giai, họ Đinh. Lúc ấy ông phấn khởi thốt lên: Trời ơi! Ông bèn đem theo ta về xã Phượng Dực. Ông hỏi: có biết tổ tiên ra sao? Cha anh ta thường kể với ta: nguyên tổ ta ở Ninh bình, huyện Gia viễn động Hoa lư, con cháu vua Đinh tiên Hoàng. Đến đời nhà Lê, ông Hùng dụê Đại vương dời về xứ Sơn Nam, phủ Thường Tín, xã Phượng Dực, phần mộ táng ở giáp Đồng Thọ. Vợ chồng sinh được4 trai 2 gái. Con trai đầu là ông Võ Tước thứ 2 là Hậu sinh, thứ 3 là Huyện thừa, thứ 4 là Trương xã. Ông biết ta con cháu thân gần lấy gia phả cho ta xem. Ta biết tổ ta bản mệnh Giáp Thân (1404), làm quan đến Tổng binh phòng Ngự sử Đinh tướng công, tự Phúc Khê, Quảng Uy tiên sinh, thọ 79 tuổi. Sau khi người mất, Hùng Duệ đại vương đến ở xứ Sơn Nam, chôn người ở xứ ấy, ngày giỗ 1/1. Lại nói tổ ta lấy 2 vợ tên là Trinh Tư và Từ Hoan. Nay trong gia phả các nhà ghi sót tên một trong hai người. Ông Hùng Duệ con của một trong hai bà, không biết của bà nào? Một bà ở giáp Đồng thọ, một bà ở giáp Nhị Ngũ. Lại nói tổ ta :đặc tiến Kim tử tán trị công thần, Phù Nam Vệ, chỉ huy chiêm sự Đinh tướng công. Tự là Cương Chính , tặng phong Hùng Duệ (có thể dịch là Nhuệ ,vì 2 chữ là một ) đại vương. Tên huý là Tuấn, bản mệnh Canh tý (1470), bị chết trận. Chiêu hồn trở táng ớ bên phải mộ tổ ông ( ở xứ đê Hương Án ,Phượng Dực Phú Xuyên Hà Tây –ghi thêm , Đinh xuân Hường ) (ngày Giỗ 11/11). Ông là người kiên trung tiết nghĩa, kiêu dũng hơn nguời. thường hay du ngoạn ở các hội võ ở xã Nghiêm xá, hai tay xách hai hòn đá, người người dều lấy làm lạ. Lớn lên làm quan đến chỉ huy Thiệm sự, là tướng có tiếng trong đời. Ông đem quân thuộc Phù Nam vệ đến xứ Châu Cầu (bản chữ Hán tại Nghệ An ghi là Cầu Châu ,bản ở Phượng Dực ghi là Châu Kiều -ghi thêm Đinh xuân Hường)để đánh giặc. Lúc đó thống binh tháo chạy đến Châu Cầu, quân lính tan rã. Tổ đại vương ta một mình mang gươm qua cầu phao 16 khoảng, thẹn vì thua trận không cho địch bắt mà tự vẫn, quân lính cũng tuẫn tiết theo. Nước sông nhuộm máu đỏ lòm. Lúc ấy bà Dương Thị Từ yên cung nhân đến chỗ chiến trường,dựa vào nốt ruồi lớn ở vai ông tìm xác không thấy, chiêu hồn trở táng ở xứ Đăng hương án,bên tả mộ cụ Phúc khê để phụng thờ tế tự. Lúc ấy linh hồn ông hiển ứng, có ngày thăng dương chỉ phán, giúp dân Châu Cầu yên ổn, của hưng vật thịnh. Dân Châu Cầu cúng tế, xin sắc phong Thượng đẳng thần, đời đời lập hương hoả, một thửa ruộng tế ở xứ Ngọ Lâm (trong bản của Phượng Dực là Ngọ Thậm ) , một ở xứ Đường Lội, một sào 5 thước. Lại nói bà Dương thị hiệu Từ Yên cung nhân, bản mệnh Mậu thân (1488), thọ 67 tuổi, người giáp Đồng Hạ, ngày giỗ 8/4, sinh được 4 trai 2 gái. Trai đầu tự Phúc Bảo. Trai thứ hai Phúc Thiện, thứ ba Phúc Đạo, thứ tư Phúc Tuy. Gái đầu Diệu Nhân, thứ hai là Xuân Hoa (trong bản Phượng Dực có Tên tục của 2 bà là Đinh thị Triền và Đinh thị Dung –Đinh xuân Hường ) . Ông Phúc Thiện tức ông Hai sinh ra Phúc Nhiêu, sinh ra sinh đồ Đinh đăng Bảng tự Phúc Long. Phúc Long sinh ra Đinh đăng Tiên tự là ông Sở. Ông Sở sinh ra Đinh đăng Quỳ. Họ Đinh dời về ấp Thái Vũ, con cháu đông đúc. Nay còn một văn bản ghi chép lại: một bà goá họ Đinh nhận cháu nuôi là Đinh nhân Gian( )(các bản đều dịch la Nhàn ,nhưng thực tế là Gian mới đúng ( )) làm con nuôi. Người chứng kiến việc đó là Đinh mậu Tài (sinh đồ) còn có sinh đồ Đinh đăng Bảng Liên danh chứng thực. Vì vậy biết tổ Đinh Đăng Bảng là Phúc Thiện,với tổ Mậu Tài là Đinh Phúc Bảo. Ông Phúc Tuy vào ở giáp Nhị Ngũ, sinh ra ông Già, ông Già sinh ông Chiêu, ông Chiêu sinh ra sinh đồ Đinh trung Thuần. họ Đinh giáp ấy con cháu đông đúc, thịnh vượng. Nay giáp áy đổi thành Phú Thọ. Con ông Hùng Duệ 4 người trông coi nhà thờ đại tôn. Chỉ biết được ba chi. Còn một chi nữa là ông Phúc Đạo. Ông Phúc Đạo là con trai thứ ba ông Hùng Duệ lúc ấy làm huyện thừa nhà Lê. Nhà Lê bị nhà Mạc chiếm mất các dinh trấn phía Bắc, phải dời về Thanh hoá ( Đời Lê Anh Tông (1556-1573) ). Tổ ta là huyện thừa theo vua. nhà Lê lấy tổ ta làm Hiệp mưu thống binh Thanh hoa đạo ,Tuyên đức hầu. Được 5năm vua sai tổ ta đến Nghệ An, huyện Đông Thành hợp cùng ông Lai quốc công hội chiến. vừa được 2năm chẳng may ông Lai quốc công bị nhà Mạc bắt , tổ ta được sai đem quân đánh. Sau tổ bị bệnh chết. Tổ sinh được ba con trai. Trai đầu và thứ hai theo vua về lại Thanh Hoá (nay theo bản gia phả mới tìm được ở Phượng Dực ,tên 2 người con của ông phúc Đạo là Đinh Phúc Thọ và Đinh phúc Thịnh ,sinh ra một gìong họ lớn ở quê – chú thêm Đinh xuân Hường ) , còn trai thứ ba được làm Thống lĩnh thuỷ bộ đạo tiên phong, tấn phong Nghĩa võ hầu hợp cùng Thái phó Tấn quốc công đem quân đến huyện Nam Đàn, xã Hoa Ổ, luyện tập thuỷ quân ở sông Gang (đời Lê Kính Tông (1600-1619) ). Tổ ta bị bệnh chết; sinh được một trai thừa hưởng chức cha làm quan bộ đạo tiên phong. Người lấy vợ làng Văn Giai, sinh dược 3 con trai. Con đầu là tổ ta được lĩnh chức thuỷ đạo tiên phong Diệu võ hầu. còn 2trai đem quân đến tổng Non Liễu, Non Hồ, Thanh Tuyên, Vân Đồn; lấy vợ ở đấy sinh hạ con cháu. Trưởng chi ở làng Văn Giai sinh hạ con cháu đông nhiều. Phàm là ở nước Nam họ Đinh đều là đồng tộc với ta. giả như đạo Thanh Hoa, huyện Đông Thành, huyện Quỳnh Lưu, tổng Nộn Liễu, xã Tràng Phác, xã Lan Lãng; mỗi chi phái đều đồng tộc với ta. Thiết nghĩ chớ sai lầm gả cưới, ngõ hầu giữ gìn luân lý; để con cháu đông đầy thịnh vượng. Vả lại có một khoản để trên là dâng hương tổ tiên, dưới là nhóm họp họ hàng mỗi năm một lần, muôn đời không quên. Từ đời Minh Mạng tới nay tiền của họ ta cộng với tiền cung tiến đã chuộc được2 sào ruộng ở Cây Khế(do chuộc lại ruộng của Đinh trọng Cử ) 2 sào ở xứ Đồng Cần ( do Đinh hữu Đa để lại ), 2 sào ở xứ Đồng Cựa (do ngài cai tổng bái cúng), cộng 5 sào. Còn 1 sào ở xứ Đồng Cựa đặt làm tế mùa xuân ở chùa Giai vào ngày 17 tháng Giêng; xôi một cân làm trai oản, áo 50 cái, vàng bạc hoa quả đầy đủ. Một thửa Cây Khế, Đồng Cần đến Năm Trạch 2 người đóng: xôi 4 cân ,chia làm 4o chén, rượu 1 vò, 2 ngàn vàng, hai trăm cây hương. Đến mùa thu đem tế ở nhà thờ (vào ngày 17/7). Đồ tế do người cày ruộng họ nộp, hai người luân phiên nhau. Nếu thiên tai mất mùa cũng không được thiếu. Lại nói về chi trưởng ở làng Văn Giai. Tổ ta là cố Thuấn, huý là Đinh hữu Thực. Mộ táng ở rú Giếng, bên hữu nhà Thánh. Ông sinh ra cố Thạc - tổng binh chức huý là Đinh hữu Tri, mộ ở rú Oán, cè Th¹c sinh hạ cố Dung, tên huý là Đinh hữu Già, mộ ở rú Bút, cố Dung sinh hạ huyện thừa công Đinh hữu Từ, bà tên là Nguyễn thị Nhân, sinh 7 trai 3 gái. Trai đầu Đinh hữu Lâu. Thứ hai tên Đinh hữu Pha, thứ ba Hữu Trí, thứ tư Hữu Lặc. Còn 3trai 3 gái (thị Cày ,thị Bừa dều chết sớm). Trai đầu Đinh hữu Lâu lấy phụ ấm (tức hưởng phúc ấm của cha ) làm Nhiêu nam, nhà cửa giàu có, hùng kiệt một thời. Trai thứ hai tên là Đinh hữu Pha, di cư ở Phủ Diễn Châu, huyện Quỳnh Phúc, xã Hoàn Hậu, làng Quỳnh Đôi. Nguyên lấy vợ làng ấy sinh toàn con gái. lại lấy thiếp ở làng Quỳnh Đôi sinh được 1 trai. Vì người vợ cả khó tính, bồng con về bên ngoại. Ông nhớ con bèn về ở với thiếp. Bác ruột thường ở Kinh ra chơi, đến thăm và cho: bạc 5 hột, áo xiêm 2 bộ. Ta cũng cho như vậy. sau đó ta ở Kinh trở về hỏi thăm làng xóm thì ông đã qua đời. Còn người con trai tục gọi là Mối. ta hỏi có biết ai không ? Ông nói: tôi là dân cày,chưa từng gặp, được biết quan lớn. Ta hỏi tổ tích của ông đâu? ông họ gì? Ông nói cha chết lúc 7,8 tuổi, để lại một tờ giấy nay vẫn còn. Ông không biết chữ nên chẳng trong đó viết gì (!) Mẹ họ Nguyễn, Ông theo họ mẹ. Ta nói ta cùng họ với ông, xin cho xem tờ giấy ấy. ta xem và biết ông không phải họ Nguyễn mà là họ Đinh. Ta sao giấy ấy đem cất với một xếp văn tự. không may bị mối ăn mất. Nay nơi ấy sinh hạ con cháu đông, có người đỗ đạt.

( Ông Mối là ông của Cử nhân Đinh Nguyễn Sưởng , ông Sưởng sinh Tú tài Đinh hiên Khoát ( Người viết lời tựa ) – Đinh xuân Hường ). Con trai thứ ba tên là Trí ở với vợ hai ở xã Hoa Lâm, làng Viên Ngoại lập cơ nghiệp. Sinh hạ con cháu, sau dời ra huyện Đông Thành. Sau lại dời ra tổng Thuận Trung xã Tràng Lộc, sinh hạ nhiều con cháu, nhà cửa giàu có. lúc loạn lạc cẫn về tế tổ, (đây là chi thứ ở Đô Lương).


Con trai thứ tư là Huyện thừa công Đinh hữu Lặc (bản của làng Văn giai dịch là Cần, có lẽ do viết bằng lối hành thư, không được rõ lắm nênmới có sự sai sót đó –Đinh xuân Hường ), ở với vợ hai ở Thanh Chương, xã Lan Lãng, làm Cai vạn, sinh hạ con cháu, sau dời đến phủ Trà Lân, nay cải là làm phủ Tương Dương, ta cũng tìm được rồi. Than ôi ! Mới một hai đời mà đã mất họ huống chi lâu. Ôi ta đã già, cháu con là Đinh hữu Dực cũng gắng sức tìm cho được ba chi ấy. Chi trưởng ở làng Văn giai là Nhiêu nam tên là Cố Biện, huý là Đinh hữu Lâu. Lấy vợ cùng làng tên Văn thị Khánh (bản của ông Hội dịch là Khánh,trong bản chữ nho còn sót lại ,có chỗ viết như là Kiêm, có chỗ lại có vẻ là Khánh, nay tôn trọng thống nhất của 2 bản giữ tên bà là Khánh -Hường ), sinh được 5 trai 2 gái . Trai đầu là Đinh hữu Thanh. Thời nhà Lê đi lính được chọn vào đội lính hạng ưu, lại đượctuyển vào hầu kiệu loan giá, một minh chầu hầu khó nhoc . Luận công ban thuởng, được thăng hạng tướng ,thăng chức Thị Liêm, Thị Kiệu, Thống lãnh tứ , nhị thủ môn đội, Chưởng phủ sự, Hùng uy võ lược tướng quân, Thanh trung hầu. Cấp công điền 12 mẫu ở bàu Chạn. Ông người to lớn, sức mạnh hơn người, hình dung phi phàm, giọng nói mạnh mẽ. Ông lấy con quan Tiến sĩ ở Bắc Thành tên Nguyễn thị Sung. Ông 35 tuổi thì mất, lúc ấy bà có thai ba tháng, sau sinh được con trai tên là Đinh hữu Phụng bà giữ chữ tiết ở vậy cho đến khi mất . Con thứ Đinh hữu Bồi, lấy vợ cùng làng , sinh được con cháu hùng trưởng một vùng. Nay chi ấy phạt tự (không còn người nối dõi)


Con trai thứ ba Đinh hữu Bài tức Cố Lại, lấy vợ cùng làng tên Nguyễn thị Huề, sinh 6 trai 5 gái.Trai đầu Đinh văn Khuê . Thứ hai Đ/ hữu Đương (tức Hữu Đa) thứ ba Đ/hữu Cừu, thứ tư Đ/ hữu Đính, thứ 5 trọng Cán (trọng Liên) thứ sáu và 5 con gái đều chết sớm.Vả chăng của chồng công vợ ,ta để lại vàng ròng 1 lạng, bạc 5 lạng dùng làm hậu sự. Còn vàng 2 lạng bạc 5 lạng làm hậu sự cho vợ . Lấy người cùng họ là Đinh hữu Dực làm trưởng họ, người do ta bảo dưỡng trưởng thành. Còn thứ nữa là Đinh hữu Cử, hữu Bân , hữu Lý, hữu Phiên, hữu Ký, hữu Luân, đăng Mậu, đăng Đệ , sau này vợ ta nên chia ruộng đất cho chúng. Ông bà phân chia ruộng đất, văn tự do ông hữu Dực giữ. Nguyên ông hữu Dực có tổ quán ở Phượng Dực nên có tên ấy. Sự việc được ghi chép để đời sau biết. nay trưởng chi huyền tôn, cai tổng Hoa Lâm Đinh hữu Dực sao chép, các chi phái trong họ đều có bản của mình. Năm Minh Mạng thứ 9 (1829) Mệnh xuân nguỵệt hạ tu soạn lại. cháu là Đinh hữu Đa thừa sao Cháu là Đinh doanh Toại thừa soạn . Cháu là huyền tôn Đinh xuân Hội (tự Văn Hữu), ngày 26/4 nhuần năm Bảo Đại thứ 19 (1944 ), thuộc chi thứ làng Văn giai, Thanh chương Nghệ An, sinh viên trường Quốc tử giám, có văn bằng tốt nghiệp trường Pháp Việt, có bằng cấp sư phạm trường Quốc học Huế, lãnh chức Tri huỵện 2 huyện Hương Sơn, Hương Thuỷ,Thăng chức Thông phán 2 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Hàm Hàn lâm viện thị giảng, Phụng thành Đại phu, kính dịch . biên. Từ đoạn này do ông Đinh danh Toại soạn . (tổ ®Çu) tiÒn tổng binh phòng ngự sử Đinh tướng công tự Phúc Khê, tiên sinh . Thủy tổ tỷ (tổ bà)hiệu Trinh Tư cùng bà Từ Hoan Cao cao tổ khảo: Đặc tiến Kim tử tán trị công thần, Phù Nam Vệ, Chỉ huy Thiªm sự Đinh tướng công ,tự Cương Chính, tặng phong Hùng Duệ Đại vương. Cao cao tæ tû D-¬ng thÞ , hiÖu Tõ an cung nh©n. Cao tổ khảo hiÖp m-u thèng lÜnh Thanh hoa ®¹o, Tuyªn ®øc hÇu, tù Phóc §¹o.


Huyền tôn Đinh xuân Minh kính Thuỷ tổ khảo Quảng Uy


Tổ 12 đời thống lĩnh thuỷ đạo tiên phong quan, Nghĩa võ hầu . Đinh tiên sinh. Tổ 11 đời chiêu tập phụ chức , thuỷ đạo tiên phong quan. Đinh tiên sinh Tæ 10 ®êi Thèng lÜnh bé ®¹o tiªn phong quan, DiÖu vâ hÇu. ( bản chữ hán duy nhất còn lại chép sót mất 3 đời) Tæ chÝn ®êi TiÒn nhiªu nam (cè ThuÊn ) §inh h÷u Thùc.mộ tại rú Giếng . Tæ 8 ®êi Tæng tri binh chøc (cè Th¹c ) §inh h÷u Tri.Mộ tại rú Oán. Tæ 7 ®êi Tæng tri binh chức ( cè Dung ) Đinh hữu Già.Mộ ở Rú Bút. Tæ 6 ®êi , HuyÖn Thõa §inh h÷u Tõ (bản Văn giai dịch là Trừ ) .Mộ ở rú bút. Tæ bµ NguyÔn thÞ Nh©n.mộ ở Nhà Tác. Tæ 5 ®êi ,Tiền Nhiªu Nam kiêm tư văn thập lý hầu , hâụ đăng thượng thọ khoa §inh h÷u L©u(giç 8/7 ) . Tæ bµ V¨n thÞ Khánh (giç 23 / 3 ).mộ ở nhà tác. Tổ 4 đời ,tiền quản Thị Liêm ,Thị Kiệu, Thống lĩnh tứ, nhị thủ môn đội , Chưởng phủ sự, Hùng uy võ lược tướng quân, tước Thanh trung hầu, huý Sơn ,tự Thanh (giỗ23/3). mộ ở Kẻ ngói . tổ bà họ Nguyễn ,hiệu Từ khoan Nhụ nhân ( là tên cũ đặt cho vợ các quan ) ,tên Nguyễn thị Sung, giỗ ((19/8). Mộ ở ven đồi Đa Cương . Tæ3 ®êi TiÒn Nhiªu nam §inh h÷u Phông ( giç 1/ 12 ). mộ ở rú đờng , toạ khôn hướng cấn .Tổ bµ Lª thÞ Hạnh Tam (huý Lª thÞ Tµi ) ( giç 17 / 3 ) .Mộ ở Cồn Chùa.. Tiªn tæ Êt dËu khoa cö nh©n , gi¸o thô Tĩnh Gia , th¨ng §èc häc tØnh


Thanh ho¸ §inh nguyÔn S-ëng. Tiªn tæ ¢t DËu khoa Tó tµi , tù §¹i §é §inh hiên Kho¸t. Tiªn tæ Hiển cung ®¹i phu Chiªm Sù viÖn ,chøc ThiÕu Chiªm Sù , kiªm Ch-ëng phñ Néi tán Th-îc sù vô ,tước Liªn trung hÇu, Đinhtrọng Liên (giç 6/5 ). Bà Nguyễn thị Khoát ,bà mất ngày 17/11, cả 2 mộ ở núi Tiên chưởng .


Tiên tæ TiÒn chÝnh ®éi tr-ëng, §« chØ huy sø vâ uý , th¨ng lµm Uý qu©n sø §inh träng Cö (giç 16/ 8). mộ ở rú Hoàng Nâm. HiÓn tæ kh¶o TiÒn Nhiªu nam kiªm chøc Trung uý §inh h÷u Loan (giç 23/5 ) mộ ở Nhà Tác.Bà tên Nguyễn thị Quyên giỗ (22/11). mộ ở Nhà Tác. HiÓn tæ kh¶o , TiÒn Nhiªu nam kiªm ch-c Trung uý §inh h÷u Lý ((giç 25/2 ). Bà Nguyễn thị Ba. Mộ ở Nhà Tác. HiÓn tæ kh¶o, Cai tổng Hoa L©m,chính cửu phẩm, §inh h÷u Dùc.(giỗ4/11) Hiển tæ tû V¨n thÞ Hạnh Tam , tøc Kiªu .hiệu Thuận tứ nhụ nhân. Vî c¶ lµ Tèng thÞ Rê (giç 20/1,năm kỷ dậu) Quª ë xø S¬n Nam ,huyÖn B×nh Lôc x· An L·o. Mộ ở xứ Cây thị. ( ghi chú : Hiển tổ khảo: cha đã chết . Hiển tổ tỉ :mẹ đã chết, tiên tổ :từ 3 đời trở lên , tằng tổ , cao tổ ,cao cao tổ khảo, theo thứ tự cứ xa mãi lên.) Các bà tổ thời trước tên và ngày giỗ không rõ,duy chỉ có đời thứ 2,và thứ 6 về sau mới thực rõ. Tổ ta huyện thừa Đinh hữu Từ sinh được 5 trai 2 gái.Trai đầu Đinh hữu Lâu, thứ 2 Đinh hữu Pha, thứ 3 Đinh hữu Trí, thứ 4 Đinh hữu Lặc. Còn 1 trai 2 gái (thi Cày, Thị Bừa ) chết sớm. Lại nói con thứ của ông ,tri bộ công Đinh hữu Pha , di cư tại xã Hoàn hậu, thôn Quỳnh Đôi. Ông lấy vợ tại xã ấy,sau khi thôi quan di cư về quê vợ. Sinh hạ con cháu tại xứ ấy. Cháu 3đời Đinh thế Mỹ vào đời nhà Lê thi trúng Sảo thông Sinh đồ. Chắt 4 đời Đinh nguyễn Sưởng sinh hạ 3 trai 1 gái .Trai đầu Đinh hiên Khoát ,thứ 2 Đinh kính Thận, thứ 3 Đinh đình Dự. Đinh nguyễn Sưởng thi trúng Sinh đồ khoa Ất dậu. Đến năm Kỉ mão cùng với Con Đinh hiên Khoát trúng Sinh đồ. Đến Ất dậu khoa Đinh nguyễn Sưởng trúng Hương Cống, Đinh hiên Khoát trúng Sinh đồ. Đinh n Sưởng nhận chức Giáo thụ phủ Tĩnh Gia , sau thăng đốc học tỉnh Thanh hoá. Con thứ 4 của ông Trừ : Đinh hữu Trí ở quê vợ , xã Hoa Lâm , thôn Viên ngoại , sau lại dời về huyện Đông Thành , tái di cư về tổng Thuận Trung , xã Tràng Phác, Sinh được con cháu đông nhiều ,nhà cửa khá giả . con thứ 4 của ông là huyện thừa Đinh hữu Lặc, ở quê vợ huyện Thanh Chương , xã Lan lãng ,làm Cai Vạn , sau di về phủ Trà Lân ,nay đổi thành Tương Dương. Nay không rõ.


Con trai đầu của Ông Từ tức tổ ta , tức Cố Biện, Đinh hữu Lâu, sinh được 5 trai 2 gái. Trai đầu Đinh hữu Thanh , thứ 2 Đinh hữu Bồi, thứ 3 Đinh hữu Bài, thứ 4, 5 không rõ,. 2 gái là thị Út , thị Lành chết sớm. Ông lấy chức của cha (nhiêu nam)kiêm cai xã,thọ 80 tuổi. Ông là người mạnh mẽ trí tuệ hơn người. Ông lấy vợ cùng làng , tên Văn thịKhánh,con nhà gia giáo. Bà thọ 70 tuổi . Lại nói con thứ của ông Lâu là Đinh hữu Bồi , sinh được con cháu cũng nhiều . Nay không còn người nối dõi . Con thứ 3 của ông Lâu là Đinh hữu Bài sinh được 6 trai 5 gái. Trai đầu Đinh văn Lục ,Thứ 2 Đinh Hữu Đương, thứ 3 Đinh hữu Cừu ,thứ 4 Đinh hữu Đính ,thứ 5 Đinh trọng Liên, thứ6 Đinh hữu Đà . Hữu Cừu , Hữu Đà và 5 gái chết sớm. Ông Bài giữ chức Lão Nhiêu kiêm Tư văn, lấy vợ cùng thôn là Nguyễn thị Huề . Trai đầu Đinh văn Lục, đời nhà Lê sớm tòng quân giữ chức Tổng tri binh chức. Sinh đựơc 1 trai: Đinh trọng Cử. một gái lấy chồng cùng làng là Tri bộ Nguyễn Công sinh được 1trai 2gái . Đinh trọng Cử là người to lớn ,uy vũ khác người . triều Lê đã qua võ trường thi trúng Lịch thụ chính đội trưởng ,chỉ huy sứ. Thăng làm lục quân sứ, chức võ uý. đã từng chinh chiến có công được vua ban thưởng ba đạo sắc phong.. Sinh được trai gái nhiều ,nay không còn nối dõi. Con trai thứ 2 Đinh hữu Đương là Lão nhiêu . lấy vợ cùng làng Nguyễn thị Soạn. Thọ đến 80 tuổi. Sinh được 5 trai . trai đầu Đinh hữu Nghi , thứ 2 Đinh hữu Nhạ, thứ 3 Đinh h Bân, thứ 4 Đinh hữu Phiêu ,thứ 5 Đinh hữu Luận . Đinh hữu Nghi đời Tây triều ( Tây Sơn ) làm chỉ huy sứ sinh được 1 gái , 3 trai. Đinh hữu Bân đời Tây triều làm Cai hợp, sinh được 1 trai , nay con cháu cũng nhiều. Đinh hữu Phiêu đi lính cho đương triều (có lẽ là nhà Nguyễn )làm chánh đội trưởng. tử trận vì nước . Sinh được 3 trai , 3 gái. Trai : Đinh hữu Thiện,h/Thức , h/ Thiều . Đinh h Luận sinh được 3 trai 4 gái : Đinh hữu Thản, h/Dũng, h/Lậm, nay con cháu cũng nhiều, còn Đinh h Nhạ phạt tự.


Trai thứ 4 của ông Bài Đinh hữu Đính làm Lão nhiêu , lấy vợ thôn Ổ Nguyễn thị Định, sinh đượ 1 trai là Đinh hữu Thiêm. Đời nhà Lê làm đội trưởng thuộc viên chức , sinh được 3 trai 1 gái: Đinhhữu Tổ ,h/ Lược, h/ Bản. Trai thứ 5 Đinh trọng Liên , lấy nghiệp quan trường để khởi thân, vinh hoa phú quý. Đời nhà Lê làm Cai hợp, thăng Câu khế (?), lại thăng chức Thiếu chiêm sự , viện Thiêm sự (đoạn trên lại viết là viện chiêm sự ), kiêm Chưởng phủ vụ nội tán thược sự ,tước Liên trung hầu..Lấy vợ đầu tại Thanh Chương,tổng Thổ Hào. Sau lấy thêm 3 vợ . Không có con .Lấy con của ông cai tổng (con thứ ) làm con thừa tự tên là Đinh văn Tiến.Văn tiến sinhĐinh phùng Xuân ,sinh Đinh văn Sử. Lại nói trai đầu ông Đh Lâu là Đinh hữu Thanh tước Thanh trung hầu sinh dược một trai tên Đinh hữu Phụng. Ông là người to lớn, mạnh mẽ, tài mạo anh hoa, lời nói nhẹ nhàng. Lúc trẻ đi lính được chọn làm lính hạng ưu, ra tuyển trườngđược chọn vào hầu kiệu ,chăm chỉ công vụ, luận công ban thưởng được thăng bổ chức Thị Liêm, Thị Kiệu, thống lĩnh tứ nhị thủ môn đội, Chưởng phủ sứ, hùng uy võ lược tướng quân. Ông hưởng lộc 12 mẫu ruộng công bàu Chạn. Bà quê Kinh bắc, con quan Tiến sĩ, tên Nguyễn thị Sung. Bà tự thân nuôi dưỡng con cháu, hưởng thọ 70 tuổi. Ông Đinh hữu Phụng sinh được 3 trai 4 gái. Trai đầu Đinh hữu Loan, thứ hai Đinh hữu Lý, thứ ba Đinh hữu Dực. Con gái là thị Kiêu, thị Quận, thị Thông, thị Lân, đều chết sớm. Ông Phụng cha chết sớm, ở với mẹ và ông đến 18 tuổi lấy vợ. Vợ ông người cùng xã, thôn Đa Nãi, con gái thứ 2,tên là Lê thị Tài. Bà là người được dân làng yêu mến, nhà cửa giàu có. Thường lấy của nhà chia cấp cho dân. Sau dân bị đói không bắt xiết nợ, ruộng đất cầm cố đem trả chủ cũ. * Con đầu ông Phụng là Đinh hữu Loan sinh được 2 trai 1 gái. Trai đầu Đinh hữu Thảo. Thứ hai Đinh hữu Huynh. Hữu Thảo và con gái chết sớm. Ông Loan người to lớn ngay thẳng, không sợ ai. Ông lấy vợ ở huyện Đông Thành, xã Hậu Duật tên là Nguyễn thị Quyên.Sinh được2 trai 1 gái. Trai: Đinh hữu Thảo, Đinh hữu Huynh .Hữu Thảo và người con gái mất sớm. Ông Huynh lấy vợ cùng làng là Nguyễn thị Cèc sinh được 1 trai là Đinh Duy Trinh, 1gái là Đinh thị Khâm. Nay chi ấy phạt tự. * Trai thứ 2 ông Phụng là Đinh hữu Lý lấy vợ cùng quê là Nguyễn thị Ba, sinh được 1 trai 5 gái. Hai gái Thị Đương, Thị Đỉnh mất sớm, còn 3 gái Thị Doanh, Thị Đinh, Thị Ý đều thành gia thất .Trai là Đinh hữu Đa lấy vợ cùng làng là Nguyễn thị Hiển sinh được 5 trai 4 gái. Trai đầu Đinh hữu Kiêm, Thứ 2 hữu Năng, thứ 3 hữu Cần, hữu Cán, hữu Sự. Ông hữu Khiêm lấy vợ cùng xã thôn Đa Nãi là Nguyễn thị Hào, sinh được 1 trai 3 gái. Trai đầu Đinh hữu Cừ lấy vợ cùng thôn là Nguyễn thị Điểu, sinh 1 trai 1 gái. Trai là Đinh hữu Lục lấy vợ thôn Xuân Bảng. chi ấy là tộc trưởng của họ ấy. * Con trai thứ ba của ông Phụng là Tức tổ ta Đinh hữu Dực sinh dược 6 trai 4 gái. Trai đầu Đinh hữu Ngạn (tự Văn Vận). Thứ hai Đinh quế Uyển (túc Văn Tiến). Thứ ba Đinh văn Đoan (tức Văn Kiêm). Thứ tư Đinh triÖu Tạo (tự Danh Toại ,hay Cố Điển) ( trong bản dịch ở làng Văn Giai,tên ông được dịch là Bút Tạo,là hoàn toàn sai với nguyên bản chữ nho, thậm chí cả với bản duy nhất còn sót lại(!).Việc đó dẫn đến việc khắc tên mộ bia của ông sai, vậy xin lưu ý sửa chữa, kẻo con cháu đời sau cười ông cha ít học(xin lưu ý bản sao bản dịch của ông Đinh xuân Hội cũng ghi là Triệu Tạo). thứ Năm Đinh văn Kiểm. Thứ sáu Đinh văn Đức. Nữ là thị Điểm ,thị Gian, thị Nguyên, thị Chuyền (con nuôi). Ông Dực tuổi Giáp thân (1764), ngày 28 giờ Ngọ tháng Tư. Ông còn có tên Hữu Da, Hữu Mỹ, hữu VÞ. Ông là người khôn khéo, 29 tuổi lấy vợ người ở làng Giáp Đông, con ông Thiêm sự MÉn trung tử tên là Văn thị Kiªu, sinh năm Bính thân (1776 ). Tính nết siêng năng, tay không làm nên giàu có. Nguyên vào đời nhà Lê ông làm đội trưởng thuỷ quân, xuất tả nội, hậu tuyển trạch đẳng đội. sau đó làm cai tổng Hoa L©m 33 năm. Ông thọ 75 tuổi. Ông mất ngày 4/11 năm mậu tuất.bà thọ 75 tuổi, sinh năm Bính Thân (1776) (bà mất 21/2 năm Ất tỵ).


Con trai trưởng ông Dực là Đinh văn Vận. Đỗ sinh đồ khoa Ất dậu. Ông sinh năm Bính thìn (1796), ngày giỗ 15/9. mả chôn cạnh đường Kẻ Ngói, lấy vợ cùng làng là Nguyễn thị Giá, sinh được 5 trai 4 gái. Trưởng nam Đinh văn Trực (giỗ 9/5) sinh được trai gái khá đông, chỉ còn gái là Đinh thị Kế lấy chồng cùng làng Văn đình Truyền. trai thứ hai ông Vận là Đinh đăng Dinh, thứ ba Đinh văn Đối, thứ 4 Đinh văn Mẫn, thứ năm Đ/v Song. Gái là Đinh thị Nhã, thị Dương, thị Liễu và một gái chết sớm . Ông Đinh văn Song lấy vợ ở thôn Ổ là Nguyễn thị Haỏ sinh ra Đinh văn Bách, Văn Bách sinh ra sinh ra Đ/v Đam. Nay không còn nối dõi (Đ/v Song giỗ 25/10. mả chôn ở Kẻ Ngói). CHI THỨ NHẤT Con trai thứ hai ông Dực là Đinh quế Uyển tức Đinh văn Tiến (Tuổi Kỷ mùi (1799),giỗ18/7, mả chôn ở cồn Trành) Ông thi đỗ đầu , lấy vợ thôn Phúc xá là Lê thị Thanh(giỗ 22/8)sinh đựoc 4 trai 5 gái . trai đầu Đinh trọng Đạt, vào đời vua Tự Đức thi đỗ Tú tài khoa Mậu thân. Tuổi Đinh hợi(1827)(giỗ 22/6) . Vợ người thôn Ổ tên Nguyễn thị Ph¸c. Sinh được2 trai 1 gái. Trai dầu Đinh v Trường,làm Lý trưởng, lấy vợ làng Tú Viên Nguyễn thị Đị, sinh được Đinh xuân Khôi và Đinh x Việt . Đinh xuân Khôi sinh ra Đinh x Thướm, Đinh x Mơi và Đinh x Thơi. Đinh xuân Việt sinh ra Đinh x Tiến , Đinh xuân Thiết, Đinh x Tại(Đinh định Quốc), gái là Đinh thị Ba. Con trai thứ hai ông Uyển là Đinh phùng Xuân. Thi trúng thí sinh, làm phó tổng, lấy vơ xã Thanh Thuỷ là Bùi thị Diệu. Sinh được 2 trai 3 gái. Trai bị phạt tự. gái con cháu đông đúc. Con trai thứ ba ông Uyển là Đinh văn Thiệu, vợ cùng thôn là Văn thị Đị sinh được 2 gái . CHI THỨ HAI Con trai thứ ba của ông Dực là Đinh văn Đoan tức Đinh văn Liên sinh được 3 trai 3 gái. Trai đầu Đinh Uý Tư, huý là Cẩm(giỗ 20/10) lấy vợ ở làng tên Văn thị Hạnh Nhị (giỗ12/6) sinh được 2 trai 3 gái. Trai là Đinh văn Sơn (chết trôi) Đinh văn Thịnh chết bệnh đậu. Con gái Đinh thị Thứ chết sớm ,thứ 2 là thị Ba. Trai thứ ba của ông Đoan đi lính chết trong thành Hà Nội. con ông di lấy hài cốt về chôn ở đồng Cựa, ngày giỗ không rõ. Trai thứ hai là Đinh văn Bích, huý là Đinh văn Diệm sinh được 1 trai 4 gái. Trai là Đinh văn Tư,sinh năm Quý Dậu (1873) lấy vợ ở Phúc Yên là Đinh thị Ngân sinh năm Nhâm Thân ( 1872),sinh được 4 trai 3 gái: trai đầu Đinh xuân Xan (tức Đinh bá Hoè). Con gái thứ hai Đinh thị Hoan , con gái thứ ba Đinh thị Thoan, trai 4 Đinh xuân San, thứ 5 Đinh xuân Mân, ,thứ 6 Đinh thị Nhơn, thứ 7 Đinh xuân Hân và một gái nuôi là thị Nhựa. - Trai đầu ông Tưlà Đinh xuân Xan (tức Đinh bá Hoè)sinh bính thân,mất 1944 thọ 50 tuổi(giỗ 19/3) sinh được 5 trai 5 gái : Đinh x Tựu , Đinh thị Em, Đinh x Án, Đinh thị Phước, Đinh thị Hường, Đinh x Hồng , Đinh x Lam, Đinh thị Tám, còn một trai một gái chết sớm. - Gái thứ hai ông Tư là Đinh thị Hoan lấy chồng cùng làng sinh ra 4 trai 2 gái. Trai :Văn đình Khoa,Văn đình Tùng , Văn đình Minh,Văn đình Sơn, gái thị Em và thị Tình. - Gái thứ ba là Đinh thị Thoan (Tiu ) - Trai thứ 4 Đinh xuân San lấy vợ làng Phúc Yên con ông lý trưởng Bạch sĩ Hán tên thị Xương, sinh được 4 trai 2 gái. Trai đầu Đinh xuân Ban, thứ 2 Đinh x Thắng, thứ ba Đinh x Tiến,thứ 4 là Đinh thị Bốn, thứ 5 Đinh x Vinh,thứ 6 Đinh thị Vang. - Trai thứ 5 Đinh x Mân lấycon ông Văn đình Liên không có con, sau lấy Nguyễn thị Kính sinh được 2 trai 2 gái : Đinh xuân Lâm, Đinh thị Xuân, Đinh thị Ba, Đinh x Bốn.


- Gái thứ 6 Đinh thị Nhơn lấy chồng Nam Đàn, thôn Phú Thọ sinh được 3 trai 2 gái. Trai Nguỹên hữu Sum, N/ hữu Lý, N /hữu Nam(đi lính bị chết) gái Nguyễn t Nga, Ng/thị Ba . - Trai thứ 7 Đinh x Hân sinh được 2 trai 3 gái: Đinh thị Cháu, Đinh x Trường ,Đinh x Bính, Đinh thị Hợi, Đinh thị Năm. - thứ 8 Đinh thị Nhựa lấy Nguyễn nhự Ất sinh được 2 gái. CHI THỨ BA Trai thứ bốn của ông Dực là Đinh danhToại (tự Triệu Tạo):tuổi Ất sửu (1805), giờ mão,ngày 3/8. ông thi đỗ hạng đầu. Ông là người cương trực không sợ ai . Ông lấy vợ người Xuân Dương, con nhà gia thế,thứ 4 trong nhà , bà tuổi Mậu dần (1818), sinh được 3 trai 6 gái(Ông giỗ 25/8 thọ 63 tuổi, bà giỗ 19/10 thọ 69 tuổi). Bà tên là Nguyễn thị Toàn.Năm sinh Mậu Dần sinh hạ 3 nam 5 gái * Gái đầu ông Toại là Đinh thị TuÇn(giỗ 21/1)gả cho tú tài trong làng Nguyễn đình Quán, con ông Nguyễn đình Ái, sinh được Nguyễn đ Uẩn , Nguyễn đ Nguyên .Gái thư 4 Đinh thị Tuyên lấy chông trong làng, con trai trưởng tú tài Văn đình Tích, Văn đình Thường, sinh 2nam 5 gái .Gái thứ 5 Đinh thị Hiên ( giỗ 15/6 ), gả tại thôn Chi Cơ, con trưởng cai tổng Huynh , Nguyễn văn Phiên (giỗ 8/8 ) , sinh hạ tử tôn Nguyễn văn Khương . Trai đầu là Đinh hồng Huân(giỗ 24/5) mộ ở đỉnh Tiên chưởng . Trai thứ2 Đinh văn Nhạc chết trẻ . Đinh thị Tùng (giỗ 10/11) gả ở thôn Phúc Yên,con ông tú tài họ Lê, Lê đức Hiền, Đinh thị Thiều( giỗ 9/8), Đinh thị Yến (năm sinh Kỉ Tị,trước lấy chồng ở Phượng Trì, Con thứ ông Bá Hộ Trần gia Tuyên Giỗ21/8. Mộ tại Kẻ Ngói Thạch Trúc .


*Trai thứ ba Đinh tự Cường (giỗ 26/4), Tức Xuân Đài, tức cụ Giám(vì đỗ đầu giám sinh nên có tên ấy).Bà tên Hoàng thị Chụt (giỗ 25/10) . Ông Cường sinh hạ 5 trai 6 gái : - Traiđầu Đinh thi Bá ,còn gọi là Bường chết sớm. - Trưởng nam Đinh xuân Hội, tính tình cương trực, thi đỗ cử nhân, sau đó tiếp tục học ở trường Quốc tử giám, trường Pháp Việt, trường Quốc học Huế. Được bổ làm tri huyện ở Hương Sơn Hương Thuỷ, Thông phán 2 tỉnh Quảng trị , Thừa Thiên , sau về giữ chức Hàn lâm viện thị gỉang ,soạn các sách dẫn giải:truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc ….. Ông mất 15/10Âl ở YênThành . Hiện mộ vẫn chưa tìm được. Ông lấy vợ ở xã Thanh Lâm , thôn Liễu Nha, tên Nguyễn thị Khương ,sinh1900, (giỗ 27/12) và vợ hai là Nguyễn thị Tỵ (giỗ 9/3) Bà cả sinh được: trai đầu Đinh xuân Hoà , bản tính thông minh,lúc đi học ở Huế đã từng được vua ban khen. bị chó dại cắn ,mất lúc 13 tuổi( giỗ 5/2). Thứ 2 gái Đinh thị xuân Bích,mất 27/1 láy chồng đầu Nguyễn hữu Hoành , sinh được Nguyễn hữu Hùng,cử nhân Văn khoa , sinh 1946. sau tái giá lấy Bùi ngọc Mỹ (giỗ …..,) . Thứ 3 trai Đinh Xuân Hiền, sinh 1930,cử nhân văn khoa mất 1994(giỗ 18/1)sinh được 1 trai 1 gái. Trai Đinh trường Giang, cử nhân ngoại ngữ, sinh 1963 . hiện đang sống ở Đức. Gái Đinh hoàng Lan sinh 1965 cử nhân Kinh tế , hiên đang sống ở Cannada . Vợ tên Trần kim Thịnh, hiện sống ở Sài gòn. Thứ 4 gái Đinh Phương Thảo, ,cử nhân sử học. lấy chồng là nhà văn Lê Khâm (tức Phan Tứ)( Mất1994, giỗ 18/3) . Hiện sống ở Đà nẵng , sinh được một trai Lê hồng Cương (sinh 1967) , cử nhân kỹ thuật, sinh được 2 con gái : Thứ 5 gái Đinh thị Ngoc Sâm , cử nhân Kỹ thuật, chồng là cử nhân Nguyễn quốc Khởi. Sinh được 1 trai 1 gái. Gái đầu Nguỹên ái Thuỳ Dương, sinh 1965, cử nhân sinh ngữ. hiện lấy chồng và sống ở Pháp. Trai thứ 2 Nguyễn quốc Tuấn, sinh 1970, cửnhân Kỹ thuật, sinh được 1 gái.


Thứ 6 Trai Đinh xuân Hảo (con bà hai) sinh1936, mất 199 là Văn thị


ở Thanh Khai. Vợ


.Sinh được 3 trai 3 gái. Trai ®Çu Đinh xuân Hoa, g¸i 2 §inh thÞ Liªn


,trai 3 Đinh xuân Hoan, gái 4 Đinh thị Hải , gái 5 Đinh thị Hằng, trai út Đinh xuân Nam. Thứ 7 trai Đinh xuân Nghệ, sinh 1943, cử nhân Kỹ thuật. vợ tên là Trần thị Phấn quê ở Nam Định. Sinh được 1trai, 2 gái, trtai đầu Đinh trần Trường Sơn ,sinh 1978, cử nhân kiến trúc, gái 2 Đinh trần lệ Thuỷ,sinh 1979 cử nhân sinh ngữ,có 2 con . Gái 3 Đinh trần Thanh Thuý, sinh năm 1982, cử nhân sinh ngữ . Thứ 8 trai Đinh xuân Hường, tú tài , sinh 1946, sinh được 2 gái : Đinh thu Hương, sinh1979. cử nhân Kinh tế, chồng là Lê thiết Hùng cử Nhân kiến trúc,sinh được 1 con gái. Gái 2 Đinh thu Trang, Sinh 1985, cử nhân Kinh tế. Gái 9 Đinh thị Hiền Thục (Đinh thu Hà) (con bà hai) sinh 1947. Chồng Vương quốc Hy. Sinh được 2 trai 3 gái. Gái đầu Vương thị Khanh, trai 2 Vương quốc Việt, Gái 3 Vương thị Tường, trai 4 Vương q Nam, gái 5 Vương thị Hợi. * Thứ nam của ông Cường Đinh xuân Khoa sinh 1900 ,mất 1982(giỗ 9/7).Vợ tên Trân thị Hụê Chất ( giỗ 28/10 ) sinh được 8 trai 3 gái


Trưởng nam Đinh xuân Giáp (Xavier Dinh), lấy vợ và mang quốc tịch Pháp, thứ nam Đinh xuân Bảng, mất 1976 (giỗ 27/2), thứ nam, Đinh xuân Bá, Đinh xuân Thái, Đinh xuân Trình, Đinh xuân Cương, Đinh xuân Dũng, Đinh xuân Hùng. Con gái gồm Đinh thị Bích Ngọc, Đinh thị Thanh Đạm, Đinh thị Thúy Nga. Những người con mất sớm: Đinh xuân Đệ, Đinh thị Minh Nguyệt, Đinh thị Bảo Thoa. * Thứ nam của ông Cường là Đinh xuân Kinh, sinh 190 , mất 19, (giỗ 15/3). Vợ tên sinh được 4 trai 3 gái : - Trai đầu Đinh xuân Minh,hiện sống ở Pháp - Trai thứ 2 Đinh xuân Vinh - Trai thứ 3 Đinh xuân Sinh, sống ở Pháp


- Trai thứ 4 Đinh xuân Ninh sống ở Pháp Gái gồm có: -Thứ 1 Đinh thị xuân Phước - thứ 2 Đinh thị xuân Lộc * thứ nam của ông Cường là Đinh xuân Kiều. sinh năm 190 , mất ở Mỹ 1998 (giỗ ),Vợ tên là . Sinh được 3 trai 2 gái


- Trưởng nam Đinh cẩm Bào , hiện ơ Mỹ , sinh 194 , Vợ tên là sinh dược con , vợ tênlà sinh 194


- Thứ 2 Đinh Thiên Trạch , sinh 194 sinh được con


- Thứ 3 Đinh xuân Châu, sinh 195 , Hiên ở Mỹ , Vợ tên là sinh được con - Thứ 4 Đinh thị Quy, sinh 195 , hiện ở Mỹ , chồng tên là sinh được con - Thứ 5 Đinh thi Lan, sinh 195 Sinh được con - Thứ 6 Đinh thị Nga, sinh 196 , hiện ở Mỹ , chồng tên là sinh được con , hiện ở Mỹ, chồng tên là


* Con gái ông Cường: Đinh thị Huúnh (giç 3/1 ,lấy chồng ở làng Xuân Dương tên NguyÔn h÷u QuyÒn (giç 1/3 ) sinh được 3 trai gái. Trai Nguyễn hữu Thiều,N/ h Sáu (Lê vinh Quốc), N/h Bảy. Gái : Cháu Sáu , Vinh Tập.


* Con gái của ông Cường: Đinh thị Hưu, lấy chồng NamĐàn tên Nguyễn hữu sinh được hữu Phượng Gái là * Con gái của ông Cường: Đinh thị Lam(giỗ 13/10), lấy chồng ở Nam Đàn, tên Lê xuân Dương (giỗ 25/10 ). Sinh dược trai: Lê xuân Nam ,Lê xuân Thường gái : *Con gái Ông Cường: Đinh thị ChÝn, lấy chồng ở Thanh Lâm tên là TrÇn ®øc §ång ( Ký §-êng ) sinh được 1 trai gái : TrÇn ®øc §-êng trai gái .Trai là nguyễn hữu Bá sinh dược Nguyễn hữu Thước, Nguyễn


* Con gái út của ông: Đinh thị M-êi (cọt) lấy chồng cùng làng là Văn đình Hạnh, sinh được Văn đình Bồng , Văn thị Hương CHI THỨ TƯ (phạt tự) Trai thứ năm của Ông Dực: Đinh văn KiÓm lấy vợ làng Tú Viên là Nguỹên thị Hương., sinh được Đinh Phong . gái là Đinh t Huyên CHI THỨ NĂM Con trai ông Dực là Đinh văn Đức (giỗ 1/12) thi trúng thí sinh , lấy vợ xã Lương Trường huyện Thanh Chương tên Hoàng thị Biến sinh được 5 trai 3 gái. Trai Đinh văn Câu, văn Phiên, văn Kiên đều mất sớm. còn lại Đinh văn Viên (tự Văn Tân)lấy vợ ở Hà Tĩnh, Huyện Cẫm Xuyên,tổng Mỹ duệ (xã Cẩm Duệ nay) thôn Như Xuân tên là Bùi thị Vực. Sau lấy thêm 2 vợ nữa sinh được 4trai: Đinh văn Bình, Văn An, Văn Thứ, Văn Bốn. Đinh văn An lấy vợ làng Văn Giai tên Bùi thị Choai sinh được Đinh xuân Long . Sau đó họ bỏ nhau, Long theo mẹ về ở Phuống. mẹ lấy ông Do ở chợ Đàng. Đinh /v An về Hà Tĩnh lấy vợ sinh được 2 gái là thị Lý, thị Lộc. Trai thứ của ông Viên là Đinh văn Thứ sinh 2 trai 2 gái . Trai Đinh xuân Quang , Đinh Xuân Minh hiện ở Hà Tĩnh , huyện Cẩm Xuyên, xã Cẩm Duệ ,htx Trung Ái , đội 2.


Trên đây là gia phả của họ Đinh , ghi lại lịch sử các chi thứ ở làng Văn Giai và các nơi khác đến đời thứ 11 kể từ cụ tổ Đinh hữa Dực. Các thông tin về thời hiện tại còn sót nhiều. Mong sự hợp tác của bà con họ hàng. Các con cháu họ Đinh ở trong và ngoài nước đã đóng góp để sửa chữa lại nhà thờ đại tôn ở làng Văn Giai, và xây mộ tổ, cũng như quy tập mộ của các tiền nhân về chôn ở Rú Đờng.Riêng về chi thứ 3 nhà thờ chi đã bị đem chia cho nông dân, nay các con cháu trong và ngoài nước đóng góp đã xây lại mới ở thôn Cầu Gang. Con cháu cũng đóng góp một khoản để gửi tiết kiệm, hàng năm gửi về làm giỗ, và để tu bổ nhà thờ. Trong đó gồm có: con cháu Ông Kinh 400$, con cháu Ông Kiều 400 $, con cháu Ông Hội 5.000.000 đồng , Ngày 17 /3 /2007 .


hiệu đính bản dịch cũ ,bổ sung mới Đinh xuân Hường.
 
Top