Hiện nay họ Đinh ở Đông Nhuế, xã Vũ Thắng, huyện Kiến Xương, Thái Bình con lưu giữ quyển Tứ Chi phổ chí Tự bằng chữ Hán viếtt năm Tự Đức thứ 27, tôi xin tạm dịch để bà con họ Đinh tham khảo, nhân kỵ Đức thái tổ Đinh Uy Dũng ( 19 tháng 2 âm lịch) họ Đinh Đông an có sang làm lễ kỵ tổ tôi xin gửi bái văn phú về Đức Thái Tổ Uy Dũng như sau:
Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. năm thứ sáu mươi sáu , canh dần niên. nhị nguyệt thập cửu nhật. Thái Bình tỉnh, Kiến Xương huyện, Vũ Thắng xã, Đông Nhuế thôn,
Hậu duệ tôn Đinh Văn Thế,cùng các cụ, ông , bà , bác, chú, anh, chị, em. con, cháu nội ngoại họ Đinh Đông An kính cẩn quỳ tâu:
Nay nhân ngày giỗ Đức Thái tổ/ vâng theo lệ cổ sắm các lễ vật hương đăng, phù tửu, quả phẩm, kim ngân, kính cáo trước linh vị cao cao tổ khảo, cao cao tổ tỷ, cao tổ khảo, cao tổ tỷ, tổ khảo, tổ tỷ và liệt vị tiên linh.
Trộm nghĩ rằng:
Cây bản hồ cội / nhân bản hồ tổ
Trời đất sáng / nhờ vầng nhật nguyệt
Người lưu thùy / nhờ phúc tổ tiên
Hưởng gạo thơm / nhớ công lam lũ
Uống nước ngon / nhớ nguồn nước trong xanh
Người sinh / hưởng đất khí trời
Chung quy / cùng đạo lý
Đời trọng / báo ơn tiên tổ
Xuất phát / tự tâm linh.
HÔM NAY:
Mười chín tháng hai khí sáng, trời xanh,
Đất Đông Nhuế rộn vui xóm ngõ.
Hướng về nguồn cội linh thiêng,
Nhìn Hồng Hà đôi bờ sóng vỗ.
Con cháu họ Đinh,
Từ mọi phương hướng về đất Tổ.
THUỶ TỔ XƯA:
Quê từ gốc xứ Thanh,
Ra Hà Nội rồi về Nam Định.
Nhất phụ / nhất tử / gặp cảnh điêu linh,
Trịnh Nguyễn phân tranh / cơ đồ nghiêng ngả
Thêm lụt lội, nhân cảnh tang thương,
Đời đã cực / lại càng thêm khổ.
Đành một gánh từ bỏ quê hương,
Cha cùng con quyết tìm nơi sinh sống / Thấy bên tả sông Hồng nước ngập, muỗi đầy, người vẫn còn thưa,
Bèn sang đó đắp bờ, thau chua, rửa mặn, Phát hoang, cày vỡ chăn nuôi.
Công sức mồ hôi đã thấu đến trời,
Nên thành hương / thành quán / nên ruộng / nên đồng.
“Đất lành chim đậu”/ sớm sinh sôi nẩy nở.
Đời thứ ba / sinh hạ tứ đinh Chia bốn chi muôn đời nối dõi/
Để lại cháu con mở mang Xây nên dòng họ Đinh ở làng Đông Nhuế /
ĐẾN ĐỨC THÁI TỔ TA:
Cha vốn gốc xứ Thanh,
Mẹ xa, âm dương cách trở
Thời trai trẻ, sức khỏe phi thường Bồi lấp bãi lầy, dọn quang lăn, cỏ.
Đạo làm người: Trung hiếu đinh ninh,
Cách xử thế: ân tình thi thố.
Công ơn mở đất, ai cũng kính yêu,
Tâm huyết xây quê, ngày càng thấy rõ.
THẾ RỒI :
Đang lo cấy cày, gặp buổi nhiễu nhương,
Đức Thái tổ được chiếu Vua lên đường vâng mệnh / Bảo vệ kho lương / chống bọn giặc hà Việc điếu phạt / trừ quân gian tặc.
Quyết một trận / Thái tổ tử vong, Đất linh thiêng mộ phần thiên táng / Sống nhiệt thành / tử trận linh thiêng,
Với hậu thế Người luôn phù hộ.
Lời xưa, ý nay bồi đắp: ” Đạo Thánh hiền ghi nhớ noi theo,
Đất cũ, làng mới xum vầy: tình cốt nhục thân thương gắn bó.
Thế mới biết:
Tu nhân, tích đức, Phật đền cho,
Khổ tứ, lao tâm, Trời chẳng phụ.
CON CHÁU HÔM NAY :
Sát cánh bên nhau,
Trước bàn thờ Tổ.
Sắm hương hoa, một lễ chân thành,
Tưởng công đức muôn phần ngưỡng mộ.
Mong Tổ tiên từ cõi linh thiêng,
Giúp con cháu mọi đường tiến bộ.
Thắp nén trầm nghi ngút tại Từ đường,
Đặt nhành hoa ngạt ngào bên Tổ mộ. ( trên bàn thờ tổ )
Tưởng nhớ ân sâu Đấng Anh Linh,
Tâm nặng, nghĩa dâng Tiên Liệt Tổ.
Nguyện Hiếu, Trung, vì Nước vì Dân,
Tròn đạo nghĩa với Đời, với Họ.
Rèn NHÂN NGHĨA TRÍ DŨNG LIÊM,
Để KHANG NINH PHÚC LỘC THỌ.
Xây làng xóm Văn minh,
Dựng Quốc cường, dân phú.
Khắp ngược xuôi, Hạnh phúc Yên Vui,
Dòng Đinh tộc danh thơm muôn thuở. !
Cúi xin Tiên Tổ chứng minh, phù hộ-
phần Chữ Hán có trích dịch gửi phần đính kèm, đến đời thứ 5 theo tộc phả Thái Bình cụ Đinh tướng công Thế Long có cùng Ngô Thời Nhậm ở Đông Nhuế Thái Bình vào những năm vụ án Canh Tý mà Ngô Thì Nhậm về đây ở ẩn tránh nạn.
Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. năm thứ sáu mươi sáu , canh dần niên. nhị nguyệt thập cửu nhật. Thái Bình tỉnh, Kiến Xương huyện, Vũ Thắng xã, Đông Nhuế thôn,
Hậu duệ tôn Đinh Văn Thế,cùng các cụ, ông , bà , bác, chú, anh, chị, em. con, cháu nội ngoại họ Đinh Đông An kính cẩn quỳ tâu:
Nay nhân ngày giỗ Đức Thái tổ/ vâng theo lệ cổ sắm các lễ vật hương đăng, phù tửu, quả phẩm, kim ngân, kính cáo trước linh vị cao cao tổ khảo, cao cao tổ tỷ, cao tổ khảo, cao tổ tỷ, tổ khảo, tổ tỷ và liệt vị tiên linh.
Trộm nghĩ rằng:
Cây bản hồ cội / nhân bản hồ tổ
Trời đất sáng / nhờ vầng nhật nguyệt
Người lưu thùy / nhờ phúc tổ tiên
Hưởng gạo thơm / nhớ công lam lũ
Uống nước ngon / nhớ nguồn nước trong xanh
Người sinh / hưởng đất khí trời
Chung quy / cùng đạo lý
Đời trọng / báo ơn tiên tổ
Xuất phát / tự tâm linh.
HÔM NAY:
Mười chín tháng hai khí sáng, trời xanh,
Đất Đông Nhuế rộn vui xóm ngõ.
Hướng về nguồn cội linh thiêng,
Nhìn Hồng Hà đôi bờ sóng vỗ.
Con cháu họ Đinh,
Từ mọi phương hướng về đất Tổ.
THUỶ TỔ XƯA:
Quê từ gốc xứ Thanh,
Ra Hà Nội rồi về Nam Định.
Nhất phụ / nhất tử / gặp cảnh điêu linh,
Trịnh Nguyễn phân tranh / cơ đồ nghiêng ngả
Thêm lụt lội, nhân cảnh tang thương,
Đời đã cực / lại càng thêm khổ.
Đành một gánh từ bỏ quê hương,
Cha cùng con quyết tìm nơi sinh sống / Thấy bên tả sông Hồng nước ngập, muỗi đầy, người vẫn còn thưa,
Bèn sang đó đắp bờ, thau chua, rửa mặn, Phát hoang, cày vỡ chăn nuôi.
Công sức mồ hôi đã thấu đến trời,
Nên thành hương / thành quán / nên ruộng / nên đồng.
“Đất lành chim đậu”/ sớm sinh sôi nẩy nở.
Đời thứ ba / sinh hạ tứ đinh Chia bốn chi muôn đời nối dõi/
Để lại cháu con mở mang Xây nên dòng họ Đinh ở làng Đông Nhuế /
ĐẾN ĐỨC THÁI TỔ TA:
Cha vốn gốc xứ Thanh,
Mẹ xa, âm dương cách trở
Thời trai trẻ, sức khỏe phi thường Bồi lấp bãi lầy, dọn quang lăn, cỏ.
Đạo làm người: Trung hiếu đinh ninh,
Cách xử thế: ân tình thi thố.
Công ơn mở đất, ai cũng kính yêu,
Tâm huyết xây quê, ngày càng thấy rõ.
THẾ RỒI :
Đang lo cấy cày, gặp buổi nhiễu nhương,
Đức Thái tổ được chiếu Vua lên đường vâng mệnh / Bảo vệ kho lương / chống bọn giặc hà Việc điếu phạt / trừ quân gian tặc.
Quyết một trận / Thái tổ tử vong, Đất linh thiêng mộ phần thiên táng / Sống nhiệt thành / tử trận linh thiêng,
Với hậu thế Người luôn phù hộ.
Lời xưa, ý nay bồi đắp: ” Đạo Thánh hiền ghi nhớ noi theo,
Đất cũ, làng mới xum vầy: tình cốt nhục thân thương gắn bó.
Thế mới biết:
Tu nhân, tích đức, Phật đền cho,
Khổ tứ, lao tâm, Trời chẳng phụ.
CON CHÁU HÔM NAY :
Sát cánh bên nhau,
Trước bàn thờ Tổ.
Sắm hương hoa, một lễ chân thành,
Tưởng công đức muôn phần ngưỡng mộ.
Mong Tổ tiên từ cõi linh thiêng,
Giúp con cháu mọi đường tiến bộ.
Thắp nén trầm nghi ngút tại Từ đường,
Đặt nhành hoa ngạt ngào bên Tổ mộ. ( trên bàn thờ tổ )
Tưởng nhớ ân sâu Đấng Anh Linh,
Tâm nặng, nghĩa dâng Tiên Liệt Tổ.
Nguyện Hiếu, Trung, vì Nước vì Dân,
Tròn đạo nghĩa với Đời, với Họ.
Rèn NHÂN NGHĨA TRÍ DŨNG LIÊM,
Để KHANG NINH PHÚC LỘC THỌ.
Xây làng xóm Văn minh,
Dựng Quốc cường, dân phú.
Khắp ngược xuôi, Hạnh phúc Yên Vui,
Dòng Đinh tộc danh thơm muôn thuở. !
Cúi xin Tiên Tổ chứng minh, phù hộ-
phần Chữ Hán có trích dịch gửi phần đính kèm, đến đời thứ 5 theo tộc phả Thái Bình cụ Đinh tướng công Thế Long có cùng Ngô Thời Nhậm ở Đông Nhuế Thái Bình vào những năm vụ án Canh Tý mà Ngô Thì Nhậm về đây ở ẩn tránh nạn.