Bản tộc phả do ông Đinh Thuần soạn năm Cảnh Hưng thứ 8 ( 1747 ) thời vua Lê Hỉên Tông bằng chữ hán nguyên văn theo thư tự ảnh dịch âm Hán và nghĩa.
Theo tư liệu viết bằng chữ Hán của ông Đinh Danh Lẫm Trưởng Ban LL họ Đinh thôn Trần Phú xã Chi Lăng- Hưng Hà – Thái Bình. Theo ông Lẫm cung cấp thì cụ Đinh Thuần soạn năm Cảnh Hưng thứ 8 ( 1747 ) thời vua Lê Hiển Tông. Tôi chụp lại 12 trang viết bằng chức Hán, Nay tôi xin mạo muội tạm tra dịch như sau:
Chữ hán và Phiên Âm Hán:
前tiền祖tổ平bình吳ngô開khai國quốc公công臣thần太thái師sư彬bân國quốc公công丁Đinh澧lễ賜tứ國quốc姓tính黎lê澧lễ太thái師sư鄰lân國quốc公công丁Đinh列liệt賜tứ國quốc姓tính黎lê列Liệt
至chí七thất代đại祖tổ滅diệt莫mạc中trung興hưng功công臣thần少thiếu尉uý楊dương郡quận公công丁Đinh福phúc延Diên貫quán紹Thiệu天thiên府phủ瑞thuỵ原nguỵên縣huyện美Mỹ林lâm冊sách
遷thiên居cư神thần溪khê縣huyện猗y頓Đốn社xã外ngoại村thôn憐liên生sinh孫tôn姪điệt宗tông
支chi丁Đinh純Thùân丁Đinh時Thời丁đinh嚴Nghiêm丁Đinh綿Miên丁Đinh熙Hy丁Đinh康Khang
丁Đinh判Phán丁đinh飯Phạn 丁Đinh 魁 丁Đinh由 Do丁Đinh 剛 Cương 丁Đinh 善 Thiện丁Đinh
迥 q úynh仝đồng 族 tộc等Đẳng.申 thân 為vi歷lịch 陳trần功công績tích職chức爵tứơc事 sự由 do前tiến祖 tổ丁đinh禮 Lễ親 thân男 nam丁Đinh列 Liệt等đẳng從 tòng.太 Thái祖 tổ高 cao皇 Hoàng帝đế於ư藍 lam 山Sơn起Khơỉ義nghĩa居 cư 可 khả藍lam冊 sách如 như 盎áng村 thôn 起 khởi兵 binh 討 thảo吳 Ngô 賊 tặc.戊 mậu 戌 tuất 年 niên 正chính月 nguyệt 初 sơ九cửu 日nhật吳Ngô 賊 tặc舉 cử quân逼 bức帝đế於ư藍 Lam 山 sơn 帝đế 回 hồi 坉đồn洛 lạc 水 thuỷ 處 xứ 設 thiết 伏 phục以 dĩ 待đắc 本 bản月 nguyệt 十 thập 日 nhật đế 命 mệnh 協 kế 同đồng 黎 Lê 銀 Ngân 黎 Lê Lý 等đẳng先 tiên 破 phá賊 tặc 軍 quân 於ư洛 Lạc 水 thuỷ 處 xứ斬 trảm 賊 tặc 眾 chúng三 tam 千 thiên 餘 dư級 cấp及 cập 獲 hoạch khí 械 giới不 bất 可 khả 勝 thắng kế.
至chí 庚 canh 子 tý 年 niên. 伏 phụng舉dữ兵 binh 來 lai 丁Đinh禮 Lễ 伏 phục 兵 binh 四 tứ 起 khởi 斬 trảm 得đắc 萬 vạn 餘 dư 給 cấp 又hựu 欽 khâm奉 phụng 帝đế 命 mệnh 協 hiệp 同đồng黎 Lê 篆 Triện 黎 Lê 問 Vấn等đẳng 擊 kích 賊 tặc 於ư忙 mang催 thôi處 xứ 吳 Ngô 軍 quân 大đại 潰 hội 至 chí 辛 tân 丑 sửu 年 niên 十 thập 一 nhị 月 nguyệt 二 nhị 十 thập 日 nhật 再 tái 奉 phụng 帝đế 命 mệnh 与 dữ 黎 Lê 秘 Bí 黎 Lê 熾 Xí 等đẳng 擊 kích 賊 tặc 於ư 罋úng 隘ải 處 xứ 身 thân 督đốc 精 tinh 兵 binh 大đại 破 phá 賊 tặc 陣 trận.
至壬寅年十二月十二日欽奉帝命 協与黎毫黎領 Linh 等身先陷 hãm陣親男丁列斬得於賊將於馬騏 Kỳ柳 Liễu 關 Quan 馮 Phùng 貢 Cống退 thối 塊 khối 冊等處賊軍大敗
至癸卯年四月初十日從帝復領linh軍回居藍山協同黎魁黎盃Bôi等擊 kích賊等擊賊於可留支陵茶隴馬鞍蒲邋等處賊眾大潰 .......theo thứ tự ảnh.
Dịch nghĩa:
Tiền tổ là Bình Ngô Khái quốc công thần, Thái sư bân quốc Công Đinh Lễ được ban họ vua tức Lê Lễ; Thái sư lân quốc công Đinh Liệt được ban họ vua tức Lê Liệt; đến đời tổ thứ bảy (Đinh Phúc Diên ở đây tính cách sắp xếp theo trong gia phả này xếp ông Đinh Lễ là đời thứ nhất, còn theo thế phả của dòng họ Đinh ở các xã Bình Lăng, Minh Tân và Lô Giang tỉnh Thái Bình ( năm kỷ Mão 1999 thì ông Đinh Phúc Diên là đời thứ 9 ) là Trung Hưng công Thần diệt Mạc, thiếu uý Dương Quân Công Đinh Phúc Diên quê ở Sách Mỹ Lâm, huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Thiên, thiên cư đến Ngoại Thôn xã Y Đốn, huyên Thần Khê, con cháu tông chi của các ông là Đinh Thuần, Đinh Thời, Đinh Nghiêm, Đinh Miên, Đinh HY, Đinh Khang, Đinh Phán, Đinh Phạn Đinh Khôi, Đinh Do , Đinh Cương, Đinh Thiện, Đinh Quýnh cùng toàn họ.
Đức Thái tổ Cao Hoàng Đế khởi nghĩa ở Lam Sơn, trước đó đã dấy quân nghĩa đánh giặc ở Minh ở thôn Như Áng, Sách Khả Lam.
Ngày 9 tháng giêng năm Mậu Tuất ( 1418) quân Minh đem đại quân đánh ép vua tại Lam Sơn. Vua phải quay về đống đồn ở Lạc Thuỷ, bày trận phục binh chờ giặc tới. Ngày 13 tháng ấy,vua lệnh hiệp đồng với bọn Lê Ngân, Lê Lý tiêu điệt quân giặc ở xứ Lạc Thuỷ, chém hơn ba ngàn tên , khí giới thu được nhiều vô kể.
Đến năm canh Tý ( 1420 ) giặc lại mang đại quân tới . Đinh Lễ phục binh bốn mặt xốc tới chém hơn một vạn thủ cấp. Lại vâng vua hiệp đồng cùng bọn Lê Triện, Lê Vấn đánh giặc ở xứ Mang Thôi ( Mường Thôi ) chúng bỏ chạy tán loạn.
Ngáy 20 tháng 11 năm Tân Sửu ( 1421) lại vâng mệnh cùng bọn Lê Bí, Lê Hào, Lê Lĩnh thân xông lên hãm trận trước.
Em trai là Đinh Liệt chém chết tướng giặc ở các xứ Mã Kỳ, Liễu quan, Phùng Cống, rồi lui về Khối Sách… quân giặc thua to.
Đến ngày 10/ 4 năm Quí Mão ( 1423) theo vua dẫn quân trở về Lam Sơn phối hợp với bọn Lê Khoi, Lê Bôi đánh địch ở Khả Lưu, Chi Lăng, Trà Lũng. Mã Yên, Bồ Liệt chúng bỏ chạy tan tác.
Đến tháng 5 năm Ất Tỵ ( 1425 ) phụng mệnh vua đi tuần ở Diễn Châu, trước thiết quân mai phục giặc Minh không biết, chúng sai Hội Tư Trương Hùng lĩnh hơn 300 thuyền lươnh đi từ Đông Quan tớiThành Trung . Bọn chúng vui mừng tranh nhau mở cổng và ra ngoài thành. . Pghục binh ta tước tốc xông lên chén hơn ngàn đầu giặc, trên 300 quân sĩ Trương Hùng tháo chạy, Đinh Liệt đoạt lấy thuyền lương rồi truy đuổi giặc.
Tới năm Bính Ngọ ( 1426) thừa thắng đuổi giặc đến tận Ninh Kiều, chém đầu tướng giặc Lý Quách, bắt sống hơn vạn tên.
Đến ngày 8 tháng 3 năm Đinh Mùi ( 1427) Đinh Lễ cùng bọn Lê Xí chiến đấu với giặc ở My Động. Ngày hôm đó, Vương Thông đem tinh binh xuất kích Thái Giám ở Tây Phù Liệt, quân ta cố sức chống giặc. Vua nghe tin sai bọn Đinh Lễ, Lê Xí đem 500 quân thiết Đột đuổi đánh giặc . Đến My Động, Vương Thông thấy Đinh Lễ quân ít bén đánh áp tới, hai ông cưỡi voi chống trả quyết liệt, bị bao vây chặt và bị chúng bắt đưa về thành Đông Quan, riêng Đinh Lễ bất khuất đến cùng , nên bị giặc giết hại.
Ngày 6 tháng 6 cùng năm bọn tướng giặc là tổng lãnh binh Liễu Thăng kiêm quốc công Mộc Thạch đêm 5 vạn quân, ngựa một ngàn con từ Quảng Nam tới . Đinh Liệt theo lệnh vua hiệp lực với bọn Lê Nhân Chú, Lê Sát mang năm vạn quân, năm thớt voi ngầm phục tại ải Chí Lăng đợi giặc tới xông lên tiêu diệt, chém chết bọn Liễu Thăng, Lý Khánh và hơn 5 vạn đầu giặc, bắt sống bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng khí giới, ngựa vàng bạc, lụa là rất nhiều, chất đống như núi, đếm không xuể. Bấy gìơ tướng giặc thua trận lực lượng mỗi lúc một yếu đi, bèn thu quân chạy về, không giám manh động . Còn việc cống nạp của nước Nam cứ theo chế độ Hồng Vũ xưa, lại thông thương qua lại.
Vua nhớ thương Đinh Lễ là bề tôi trung thành tận tuỵ, có nhiều công lao, cho lập đền thờ phụng ...
Lại cho con gái trưởng là Đinh Thị Ngọc Trang làm thái hậu hầu hạ Thuận Thiên Hoàng đế. Vua bị thần yêu sách: ‘ Muốn đựơc thiên hạ phải gấp tiến ái phi Triêu đình bình nghị chọn được người đẹp là Tiên Dung công chúa để thay thế tiến thần. Thần không chịu, đêm sau thần linh lại hò hét khiến ba quân đều kinh hãi.
Khi ấy Đinh Thị Ngọc Trang hiệu là Chiêu Từ công chúa có lời tâu rằng : ‘Đế vương hưng thịnh trong trời đất chân thực là đồng nhất.. nay muốn có thiên hạ thì không thể tham, mà phải quyết đi để được yên vậy. Cha thiếp có công với nước mà lại tử trận, Thiếp mới sinh được một con trai để duy trì nghiệp Vương đế về sau. Thiếp cam giao hội với thần linh để cứu sinh linh mệnh mạch muôn dân” Nói đoạn bèn mặc áo xiêm đi lên đỉnh linh Sơn. Đêm ấy thì bà hoá. Sáng ngày mai, vua cùng quần thần đều bùi ngùi thương sót, xây miếu ở nơi hang núi, đặt hiệu là thếm Lục Đẩu, thuộc xã Thaỏ Hoa (sau đỏi là xã Nam Hoa)
Tháng 3 năm Mậu Thân ( 1428 ) vua hội các tướng lĩnh văn võ để bình công khen thương.
Tháng 5 năm ấy lên ngôi vua đặt tên hiệu là Thuận Thiên Ơn sâu Đinh Lễ trong buổi đầu khởi nghĩa gian nan, bị tử trận, công lao ghi mãi ở sử sách, phong tặng Bình Ngô khai quốc công thần, nhập nội tư không Bình Chương quân quốc Trọng sự Đại tư đồ Thái sư Bân quốc công Đinh Lễ ban tính (họ vua) là Lê Lễ.
Em trai là Bình Ngô Khai Quốc Công Thần Suy Trung Dực Vận Đặc Tiến khai phủ Nghi đồng Tam Ty Nhập nội kiểm Hiệu Bình chương sự, kiêm Thái sư , thái tử Thượng trụ Lân quốc công Đinh Liệt ban quốc tính là Lê Liệt.
Con trai làm tả thị lang Bộ Binh kiêm Tông nhân phủ Tông Nhân lệnh, Tả tông chính, Văn thắng Hầu Đinh Công Đột.
Con trai nữa làm Công bộ hữu Thị Lang Đô Tổng Binh Sứ Ty, Lương nghĩa Hầu Đinh Công Đột.
Đặc tiền Phụ Quốc Thượng tướng quân cẩm Y vệ Đô chỉ Huy sứ tiền nghĩa Doanh Mỹ Lâm Hầu Đinh Khắc Thận.
Đông quân Đô Đốc phủ Tả Đô Đốc tặng thái phó Nam Quận Công Đinh Phúc Vận.
Thái tể Thuý quân công Đinh Thừa Cận.
Đông quân Đô Đốc tả Đô Đốc tặng thiếu uý Dương Quận Công Đinh Phúc Diên.
Chánh hội Trưởng, Khuông Cầu Hầu Đinh Phúc Tiến
Chánh hội trưởng Toản Vũ Hầu Đinh Phúc Tuyển
Chánh hội trưởng Trí an Hầu Đinh Phúc Liên
Chánh hội trưởng Phan lộc Hầu Đinh Phúc Đạt
Tán trị triuệ vũ Hầu Đinh Đình Chất.
Hơn nữa : Tiền tổ là Đinh Lễ, em trai là Đinh Liệt phò tá Đức Thái tổ Cao Hoàng đế dẹp yên giặc Bắc , khôi phục bồc cõi nước Nam.
Đinh Khắc Thận phò tá Đức Thế Minh Khang Thái Vương ( tức Trịnh Kiểm) quan tước Thượng Tướng quân Mỹ Lâm Hầu.
Đinh Thừa Cận phò tá Đức THánh tổ Triết vương (tức Trịnh Tùng ) quan tước đến thái tể Thuý quận công.
Đinh Phúc Diên phò tá Đức Văn Tổ Nghị Vương (tức Trịnh Tráng) tiễu trừ Nguỵ Mạc được ban thánh chỉ bút tích và thẻ vàng “ Phú quí hoạn nạn đồng kỳ hưu” ( phú quí hoạn nạn cùng chia sẻ) quan tước đến Thúy uý Dương Quân Công.
Đinh Phúc Tiến phò tá Đức Thành Tổ Dương vương ( tức Trịnh Tạc) chức tước Chánh Đội trưởng Khuông hầu 9 Trịnh Căn ) chánh Đội trưởng Trí an hầu.
Còn các điều ban bố, sắc mệnh , lẹnh chỉ, điều ước ( minh thệ ) nắm vững các sự tích cùng các việc tạo lệ, ruộng đất hương hoả 9 tế điền ) và các việc phong tặng của các triều vua.
Năm Hồng Đức thứ 5 ( 1474 ) phong Thái sư Bân quốc công phù vận Đại Vương.
Đến tháng 2 năm Nhâm Dần kính phụng mệnh chỉ khảo xét công tích các công thần và các dòng họ của công thần phải làm đầy đủ để nộp lên cho quan Khâm sai thu lấ đem về.
Tới năm Quí Mão phụng giảm bớt công thần và ruộng đất hương hoả ( tự điền ) chuẩn cho một trướng chi thừa tự, còn số dư ra giao cho dân, Từ đó đến nay được nhờ ơn đại đức của nhà vua nhớ đến con cháu dòng họ của các công thần có công lao từ xưa, chưa có tác dụng , nay phải ghi chép đầy đủ nộp lên.
Theo tư liệu viết bằng chữ Hán của ông Đinh Danh Lẫm Trưởng Ban LL họ Đinh thôn Trần Phú xã Chi Lăng- Hưng Hà – Thái Bình. Theo ông Lẫm cung cấp thì cụ Đinh Thuần soạn năm Cảnh Hưng thứ 8 ( 1747 ) thời vua Lê Hiển Tông. Tôi chụp lại 12 trang viết bằng chức Hán, Nay tôi xin mạo muội tạm tra dịch như sau:
Chữ hán và Phiên Âm Hán:
前tiền祖tổ平bình吳ngô開khai國quốc公công臣thần太thái師sư彬bân國quốc公công丁Đinh澧lễ賜tứ國quốc姓tính黎lê澧lễ太thái師sư鄰lân國quốc公công丁Đinh列liệt賜tứ國quốc姓tính黎lê列Liệt
至chí七thất代đại祖tổ滅diệt莫mạc中trung興hưng功công臣thần少thiếu尉uý楊dương郡quận公công丁Đinh福phúc延Diên貫quán紹Thiệu天thiên府phủ瑞thuỵ原nguỵên縣huyện美Mỹ林lâm冊sách
遷thiên居cư神thần溪khê縣huyện猗y頓Đốn社xã外ngoại村thôn憐liên生sinh孫tôn姪điệt宗tông
支chi丁Đinh純Thùân丁Đinh時Thời丁đinh嚴Nghiêm丁Đinh綿Miên丁Đinh熙Hy丁Đinh康Khang
丁Đinh判Phán丁đinh飯Phạn 丁Đinh 魁 丁Đinh由 Do丁Đinh 剛 Cương 丁Đinh 善 Thiện丁Đinh
迥 q úynh仝đồng 族 tộc等Đẳng.申 thân 為vi歷lịch 陳trần功công績tích職chức爵tứơc事 sự由 do前tiến祖 tổ丁đinh禮 Lễ親 thân男 nam丁Đinh列 Liệt等đẳng從 tòng.太 Thái祖 tổ高 cao皇 Hoàng帝đế於ư藍 lam 山Sơn起Khơỉ義nghĩa居 cư 可 khả藍lam冊 sách如 như 盎áng村 thôn 起 khởi兵 binh 討 thảo吳 Ngô 賊 tặc.戊 mậu 戌 tuất 年 niên 正chính月 nguyệt 初 sơ九cửu 日nhật吳Ngô 賊 tặc舉 cử quân逼 bức帝đế於ư藍 Lam 山 sơn 帝đế 回 hồi 坉đồn洛 lạc 水 thuỷ 處 xứ 設 thiết 伏 phục以 dĩ 待đắc 本 bản月 nguyệt 十 thập 日 nhật đế 命 mệnh 協 kế 同đồng 黎 Lê 銀 Ngân 黎 Lê Lý 等đẳng先 tiên 破 phá賊 tặc 軍 quân 於ư洛 Lạc 水 thuỷ 處 xứ斬 trảm 賊 tặc 眾 chúng三 tam 千 thiên 餘 dư級 cấp及 cập 獲 hoạch khí 械 giới不 bất 可 khả 勝 thắng kế.
至chí 庚 canh 子 tý 年 niên. 伏 phụng舉dữ兵 binh 來 lai 丁Đinh禮 Lễ 伏 phục 兵 binh 四 tứ 起 khởi 斬 trảm 得đắc 萬 vạn 餘 dư 給 cấp 又hựu 欽 khâm奉 phụng 帝đế 命 mệnh 協 hiệp 同đồng黎 Lê 篆 Triện 黎 Lê 問 Vấn等đẳng 擊 kích 賊 tặc 於ư忙 mang催 thôi處 xứ 吳 Ngô 軍 quân 大đại 潰 hội 至 chí 辛 tân 丑 sửu 年 niên 十 thập 一 nhị 月 nguyệt 二 nhị 十 thập 日 nhật 再 tái 奉 phụng 帝đế 命 mệnh 与 dữ 黎 Lê 秘 Bí 黎 Lê 熾 Xí 等đẳng 擊 kích 賊 tặc 於ư 罋úng 隘ải 處 xứ 身 thân 督đốc 精 tinh 兵 binh 大đại 破 phá 賊 tặc 陣 trận.
至壬寅年十二月十二日欽奉帝命 協与黎毫黎領 Linh 等身先陷 hãm陣親男丁列斬得於賊將於馬騏 Kỳ柳 Liễu 關 Quan 馮 Phùng 貢 Cống退 thối 塊 khối 冊等處賊軍大敗
至癸卯年四月初十日從帝復領linh軍回居藍山協同黎魁黎盃Bôi等擊 kích賊等擊賊於可留支陵茶隴馬鞍蒲邋等處賊眾大潰 .......theo thứ tự ảnh.
Dịch nghĩa:
Tiền tổ là Bình Ngô Khái quốc công thần, Thái sư bân quốc Công Đinh Lễ được ban họ vua tức Lê Lễ; Thái sư lân quốc công Đinh Liệt được ban họ vua tức Lê Liệt; đến đời tổ thứ bảy (Đinh Phúc Diên ở đây tính cách sắp xếp theo trong gia phả này xếp ông Đinh Lễ là đời thứ nhất, còn theo thế phả của dòng họ Đinh ở các xã Bình Lăng, Minh Tân và Lô Giang tỉnh Thái Bình ( năm kỷ Mão 1999 thì ông Đinh Phúc Diên là đời thứ 9 ) là Trung Hưng công Thần diệt Mạc, thiếu uý Dương Quân Công Đinh Phúc Diên quê ở Sách Mỹ Lâm, huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Thiên, thiên cư đến Ngoại Thôn xã Y Đốn, huyên Thần Khê, con cháu tông chi của các ông là Đinh Thuần, Đinh Thời, Đinh Nghiêm, Đinh Miên, Đinh HY, Đinh Khang, Đinh Phán, Đinh Phạn Đinh Khôi, Đinh Do , Đinh Cương, Đinh Thiện, Đinh Quýnh cùng toàn họ.
Đức Thái tổ Cao Hoàng Đế khởi nghĩa ở Lam Sơn, trước đó đã dấy quân nghĩa đánh giặc ở Minh ở thôn Như Áng, Sách Khả Lam.
Ngày 9 tháng giêng năm Mậu Tuất ( 1418) quân Minh đem đại quân đánh ép vua tại Lam Sơn. Vua phải quay về đống đồn ở Lạc Thuỷ, bày trận phục binh chờ giặc tới. Ngày 13 tháng ấy,vua lệnh hiệp đồng với bọn Lê Ngân, Lê Lý tiêu điệt quân giặc ở xứ Lạc Thuỷ, chém hơn ba ngàn tên , khí giới thu được nhiều vô kể.
Đến năm canh Tý ( 1420 ) giặc lại mang đại quân tới . Đinh Lễ phục binh bốn mặt xốc tới chém hơn một vạn thủ cấp. Lại vâng vua hiệp đồng cùng bọn Lê Triện, Lê Vấn đánh giặc ở xứ Mang Thôi ( Mường Thôi ) chúng bỏ chạy tán loạn.
Ngáy 20 tháng 11 năm Tân Sửu ( 1421) lại vâng mệnh cùng bọn Lê Bí, Lê Hào, Lê Lĩnh thân xông lên hãm trận trước.
Em trai là Đinh Liệt chém chết tướng giặc ở các xứ Mã Kỳ, Liễu quan, Phùng Cống, rồi lui về Khối Sách… quân giặc thua to.
Đến ngày 10/ 4 năm Quí Mão ( 1423) theo vua dẫn quân trở về Lam Sơn phối hợp với bọn Lê Khoi, Lê Bôi đánh địch ở Khả Lưu, Chi Lăng, Trà Lũng. Mã Yên, Bồ Liệt chúng bỏ chạy tan tác.
Đến tháng 5 năm Ất Tỵ ( 1425 ) phụng mệnh vua đi tuần ở Diễn Châu, trước thiết quân mai phục giặc Minh không biết, chúng sai Hội Tư Trương Hùng lĩnh hơn 300 thuyền lươnh đi từ Đông Quan tớiThành Trung . Bọn chúng vui mừng tranh nhau mở cổng và ra ngoài thành. . Pghục binh ta tước tốc xông lên chén hơn ngàn đầu giặc, trên 300 quân sĩ Trương Hùng tháo chạy, Đinh Liệt đoạt lấy thuyền lương rồi truy đuổi giặc.
Tới năm Bính Ngọ ( 1426) thừa thắng đuổi giặc đến tận Ninh Kiều, chém đầu tướng giặc Lý Quách, bắt sống hơn vạn tên.
Đến ngày 8 tháng 3 năm Đinh Mùi ( 1427) Đinh Lễ cùng bọn Lê Xí chiến đấu với giặc ở My Động. Ngày hôm đó, Vương Thông đem tinh binh xuất kích Thái Giám ở Tây Phù Liệt, quân ta cố sức chống giặc. Vua nghe tin sai bọn Đinh Lễ, Lê Xí đem 500 quân thiết Đột đuổi đánh giặc . Đến My Động, Vương Thông thấy Đinh Lễ quân ít bén đánh áp tới, hai ông cưỡi voi chống trả quyết liệt, bị bao vây chặt và bị chúng bắt đưa về thành Đông Quan, riêng Đinh Lễ bất khuất đến cùng , nên bị giặc giết hại.
Ngày 6 tháng 6 cùng năm bọn tướng giặc là tổng lãnh binh Liễu Thăng kiêm quốc công Mộc Thạch đêm 5 vạn quân, ngựa một ngàn con từ Quảng Nam tới . Đinh Liệt theo lệnh vua hiệp lực với bọn Lê Nhân Chú, Lê Sát mang năm vạn quân, năm thớt voi ngầm phục tại ải Chí Lăng đợi giặc tới xông lên tiêu diệt, chém chết bọn Liễu Thăng, Lý Khánh và hơn 5 vạn đầu giặc, bắt sống bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng khí giới, ngựa vàng bạc, lụa là rất nhiều, chất đống như núi, đếm không xuể. Bấy gìơ tướng giặc thua trận lực lượng mỗi lúc một yếu đi, bèn thu quân chạy về, không giám manh động . Còn việc cống nạp của nước Nam cứ theo chế độ Hồng Vũ xưa, lại thông thương qua lại.
Vua nhớ thương Đinh Lễ là bề tôi trung thành tận tuỵ, có nhiều công lao, cho lập đền thờ phụng ...
Lại cho con gái trưởng là Đinh Thị Ngọc Trang làm thái hậu hầu hạ Thuận Thiên Hoàng đế. Vua bị thần yêu sách: ‘ Muốn đựơc thiên hạ phải gấp tiến ái phi Triêu đình bình nghị chọn được người đẹp là Tiên Dung công chúa để thay thế tiến thần. Thần không chịu, đêm sau thần linh lại hò hét khiến ba quân đều kinh hãi.
Khi ấy Đinh Thị Ngọc Trang hiệu là Chiêu Từ công chúa có lời tâu rằng : ‘Đế vương hưng thịnh trong trời đất chân thực là đồng nhất.. nay muốn có thiên hạ thì không thể tham, mà phải quyết đi để được yên vậy. Cha thiếp có công với nước mà lại tử trận, Thiếp mới sinh được một con trai để duy trì nghiệp Vương đế về sau. Thiếp cam giao hội với thần linh để cứu sinh linh mệnh mạch muôn dân” Nói đoạn bèn mặc áo xiêm đi lên đỉnh linh Sơn. Đêm ấy thì bà hoá. Sáng ngày mai, vua cùng quần thần đều bùi ngùi thương sót, xây miếu ở nơi hang núi, đặt hiệu là thếm Lục Đẩu, thuộc xã Thaỏ Hoa (sau đỏi là xã Nam Hoa)
Tháng 3 năm Mậu Thân ( 1428 ) vua hội các tướng lĩnh văn võ để bình công khen thương.
Tháng 5 năm ấy lên ngôi vua đặt tên hiệu là Thuận Thiên Ơn sâu Đinh Lễ trong buổi đầu khởi nghĩa gian nan, bị tử trận, công lao ghi mãi ở sử sách, phong tặng Bình Ngô khai quốc công thần, nhập nội tư không Bình Chương quân quốc Trọng sự Đại tư đồ Thái sư Bân quốc công Đinh Lễ ban tính (họ vua) là Lê Lễ.
Em trai là Bình Ngô Khai Quốc Công Thần Suy Trung Dực Vận Đặc Tiến khai phủ Nghi đồng Tam Ty Nhập nội kiểm Hiệu Bình chương sự, kiêm Thái sư , thái tử Thượng trụ Lân quốc công Đinh Liệt ban quốc tính là Lê Liệt.
Con trai làm tả thị lang Bộ Binh kiêm Tông nhân phủ Tông Nhân lệnh, Tả tông chính, Văn thắng Hầu Đinh Công Đột.
Con trai nữa làm Công bộ hữu Thị Lang Đô Tổng Binh Sứ Ty, Lương nghĩa Hầu Đinh Công Đột.
Đặc tiền Phụ Quốc Thượng tướng quân cẩm Y vệ Đô chỉ Huy sứ tiền nghĩa Doanh Mỹ Lâm Hầu Đinh Khắc Thận.
Đông quân Đô Đốc phủ Tả Đô Đốc tặng thái phó Nam Quận Công Đinh Phúc Vận.
Thái tể Thuý quân công Đinh Thừa Cận.
Đông quân Đô Đốc tả Đô Đốc tặng thiếu uý Dương Quận Công Đinh Phúc Diên.
Chánh hội Trưởng, Khuông Cầu Hầu Đinh Phúc Tiến
Chánh hội trưởng Toản Vũ Hầu Đinh Phúc Tuyển
Chánh hội trưởng Trí an Hầu Đinh Phúc Liên
Chánh hội trưởng Phan lộc Hầu Đinh Phúc Đạt
Tán trị triuệ vũ Hầu Đinh Đình Chất.
Hơn nữa : Tiền tổ là Đinh Lễ, em trai là Đinh Liệt phò tá Đức Thái tổ Cao Hoàng đế dẹp yên giặc Bắc , khôi phục bồc cõi nước Nam.
Đinh Khắc Thận phò tá Đức Thế Minh Khang Thái Vương ( tức Trịnh Kiểm) quan tước Thượng Tướng quân Mỹ Lâm Hầu.
Đinh Thừa Cận phò tá Đức THánh tổ Triết vương (tức Trịnh Tùng ) quan tước đến thái tể Thuý quận công.
Đinh Phúc Diên phò tá Đức Văn Tổ Nghị Vương (tức Trịnh Tráng) tiễu trừ Nguỵ Mạc được ban thánh chỉ bút tích và thẻ vàng “ Phú quí hoạn nạn đồng kỳ hưu” ( phú quí hoạn nạn cùng chia sẻ) quan tước đến Thúy uý Dương Quân Công.
Đinh Phúc Tiến phò tá Đức Thành Tổ Dương vương ( tức Trịnh Tạc) chức tước Chánh Đội trưởng Khuông hầu 9 Trịnh Căn ) chánh Đội trưởng Trí an hầu.
Còn các điều ban bố, sắc mệnh , lẹnh chỉ, điều ước ( minh thệ ) nắm vững các sự tích cùng các việc tạo lệ, ruộng đất hương hoả 9 tế điền ) và các việc phong tặng của các triều vua.
Năm Hồng Đức thứ 5 ( 1474 ) phong Thái sư Bân quốc công phù vận Đại Vương.
Đến tháng 2 năm Nhâm Dần kính phụng mệnh chỉ khảo xét công tích các công thần và các dòng họ của công thần phải làm đầy đủ để nộp lên cho quan Khâm sai thu lấ đem về.
Tới năm Quí Mão phụng giảm bớt công thần và ruộng đất hương hoả ( tự điền ) chuẩn cho một trướng chi thừa tự, còn số dư ra giao cho dân, Từ đó đến nay được nhờ ơn đại đức của nhà vua nhớ đến con cháu dòng họ của các công thần có công lao từ xưa, chưa có tác dụng , nay phải ghi chép đầy đủ nộp lên.
Tháng 8 năm Cảnh hưng thứ 8 (1447)
Hình ảnh chụp cuốn gia phả họ Đinh - Cảnh hưng thứ 8 (1447):
Hình ảnh 1
...
Hình ảnh 2
...
Hình ảnh 3
...
Hình ảnh 4.
...
Hình ảnh 5.
...
Hình ảnh 6.
...
Hình ảnh 7.
...
Hình ảnh 8.
...
Hình ảnh 9.
...
Hình ảnh 10.
...
Hình ảnh 11.
Hình ảnh 1
...
Hình ảnh 2
...
Hình ảnh 3
...
Hình ảnh 4.
...
Hình ảnh 5.
...
Hình ảnh 6.
...
Hình ảnh 7.
...
Hình ảnh 8.
...
Hình ảnh 9.
...
Hình ảnh 10.
...
Hình ảnh 11.
Đưa tin: ĐINH XUÂN VINH
họ Đinh Đông An - Nam Định
Khu 4 b TT Ngô Đồng
Giao Thuỷ - Nam Định
Điện thoại: 0944590078
Email: [email protected]
họ Đinh Đông An - Nam Định
Khu 4 b TT Ngô Đồng
Giao Thuỷ - Nam Định
Điện thoại: 0944590078
Email: [email protected]