BIỂN HÀM TÂN
Phân hiệu trường xã Sơn Mỹ huyện Hàm Tân thời gian này còn mang tên tỉnh Thuận Hải là một trong những trường quê vùng đồi dốc cao ngó ra vịnh Hàm tân biển xanh bát ngát bốn mùa gió lộng. Các thầy cô giáo ở đây có được một niềm an ủi khi phải làm việc trong chật vật khó khăn của thời bao cấp đó là những ngày hè thầy cô cùng học trò ra tận biển để tận hưởng luồng không khí mát rượi không tốn tiền mua từ biển thổi vào hay những con còng con cua núp dưới lớp cát khi sóng đánh vô. Tiếp nối xã Sơn Mỹ, xã Tân Thắng nhờ kế cận bờ biển nối dài về Bình Châu , Bưng Riềng cũng có được "kho trời đât" vô tận này.
Những đêm mùa câu mực, một vùng biển ban đêm lấp lánh muôn vàn ánh đèn thắp sáng từ hàng ngàn con thuyền và thúng. Tôi đứng trên đồi cao nhìn về biển - cả một vũ trụ của hàng ngàn ánh sao đèn lấp lánh không thể nào đếm xuể.
Đó là ký ức của tôi về biển cùng ngư dân vùng này. Riêng trên các đồi đất cao vùng gia đình tôi sống dành cho nông dân cùng tiều phu những gia đình gắn liền mạch sống với đất rẫy cùng cây rừng . Từ hai bàn tay, cái cuốc cây rìu người dân đã tạo ra vô số luống khoai nương sắn bạt ngàn . Rừng xanh dần dần biến mất theo miếng ăn của con người khi đất ruộng quá hiếm hoi. Thay vào đó các đồi trồng cây hoa màu phụ chạy dần về núi Đất hay núi Bể . Rừng còn bị bị san bằng- đốt phá cho những gánh than hay những thớ gỗ xây nhà dựng cửa. Trẻ con sau những giờ phụ mẹ cha vào rừng nhặt than, trỉa bắp các em cũng có những giờ hạnh phúc học hành với các thầy cô bên cạnh mái trường đổ nát xiêu vẹo có khi loang lỗ dấu đạn chiến tranh.
Vợ tôi và các cô thầy khác từng có cơ hội gần gũi với người dân bên nương khoai rẫy bắp cùng đói cùng no với trẻ con vùng kinh tế mới. Dấu ấn một thời gọi là bao cấp, tôi không quên hình ảnh các thầy cô hàng tháng phải đạp xe về tận huyên xếp hàng từ sáng đến chiều chờ "dài cổ" mới mua được tiêu chuẩn mỗi ngừoi hai lít dầu hôi cùng vài lạng(trăm gam) thịt heo. Chuyện mới kỳ vì ai cũng thích thịt heo loại "nhiều mỡ" ! thì ra các cô thầy ưa mỡ để rán ăn dần trọn tháng !
Đời sống thấy cô tuy khổ thì khổ đó nhưng dù sao cũng còn khá hơn các em vì các em có khi phải thắp đèn bằng dầu mù - u kiếm trong rừng. Hàng đêm mù - u thắp thay dầu vì dầu là những thứ gì thuộc loại "hiếm quý". Những đêm tôi đi rẫy về trễ nghe tiếng ê a các em học bài vọng ra từ các mái tranh làm lòng tôi xao xuyến . Ánh đèn lù mù le lói chiếu ra từ các mái tranh nghèo . Tiếng học bài của các em nhỏ tôi nghe như phần nào giảm đi nỗi hoang sơ nơi thôn dã. Ngày mai các em còn tới lớp cũng ê a tiếng đọc bài theo nhịp thước của thầy- của cô tại ngôi trường mà gia đình tôi đang trú ngụ.
Hình trắng đen chụp năm 1986, học trò lớp 3 chụp chung với cô giáo tức là vợ tôi cạnh ngôi trường cũ, vách hông trường đã đổ nát trong chiến tranh, nên qua cửa sổ chúng ta thấy một khoảng sáng trắng
Nghèo là nghèo chung , khổ là khổ chung tất cả đều chia sẻ nhau những cơ cực. Ngày TẾT THẦY CÔ hàng năm học trò nghèo không có chi có khi lại xách luôn cả xâu cá mới câu được đem biếu cô. Có em lại đem những lon bắp hay nhũng gì trong vườn các em có được đem tới thầy cô lấy thảo. Giờ nhớ lại tôi không quên được nét ngây ngô chất phác của các em học trò vùng quê thuở ấy.
Cô Ph được đổi về dạy gần nhà tại xã Sơn Mỹ Hàm tân và cùng dạy học với vợ tôi tại phân hiệu trường Sơn Mỹ này khá lâu. Thời bao cấp lưong cô thầy vài ba chục đồng, chủ yếu nhờ vào tem phiếu. Cô Ph cũng không ngoại lệ. Ngày tháng chắt chiu nưôi con heo đen, gầy dựng hạnh phúc cho cô đó là ngày cô đám cưới. Ngày cưới của cô gần kề, con heo cô nuôi cũng vừa lớn là chủ lực chính cho buổi liên hoan trong vùng thôn dã, là tất cả hi vọng cô đặt vào gần một năm trời chăm sóc cho nó miếng cám ngọn rau. Con heo đen ăn ròng cám chuối, vùng gần biển đôi khi cô cũng thêm cho nó một ít cá vụn . Xóm làng ai cũng xuýt xoa khen con heo mau lớn, thịt con heo này chắc là ngon lắm !
Ngày hạnh phúc tức là ngày cưới của cô Ph đã đến. Giáo viên cùng trường như vợ tôi phải tới dự thôi. Vậy là tôi có được một ngày tạm dừng rìu rựa, ở nhà ru con cho vợ tôi đi dự đám cưới. Thời gian này nhà tôi đang tạm trú tại ngôi trường đổ nát mà vợ tôi vừa dạy học vừa ở với gia đình. Còn tôi dĩ nhiên là phu trường tự nguyện không có trợ cấp, dù sao gia đình tôi có một nơi che mưa đụt nắng là may mắn lắm rồi .
Đứa con gái của tôi năm vẫy đạp trong nôi. Nhờ trời tuy khoai sắn nhiều hơn cơm nhưng con tôi lớn nhanh như thổi, trong thôn ai cũng khen , các cô thầy đi ngang đều ưa nựng bé. Tôi vừa ru con vừa ngóng tai nghe tiếng pháo đám cưới cô Ph bên thôn kế cận nhưng hoàn toàn im lặng. Tôi chợt nhớ ra làm gì thời này mà có pháo! nhất là ở vùng thôn quê rẫy bái như vùng này.
Cái nôi tre méo mó chốc chốc rung rinh theo vẫy đạp của con gái tôi . Tôi vừa ru con tôi vừa ngó vách tường vôi loang lổ vết đạn . Mái trường một vách cưối đã sụp đổ tạm thay bằng những liếp lá buông cùng ván rừng. Qua khung cửa sổ tôi còn thấy được biển Hàm tân xanh ngắt ẩn hiện sau những hàng cây bạch đàn . Thấp thoáng vài con thuyền chài nhấp nhô trên sóng biển. Cứ mùa mực về trời càng chiều càng nhiều thuyền ra khơi . Khi màn đêm vừa buông xuống là muôn ngàn ánh đèn câu mực sẽ thi nhau lấp lánh trên vịnh Hàm tân . Mực là nguồn kinh tế là tiền là vàng cho ngư dân vùng thị xã La Gi. Người dân quê vùng cao tôi đang ở đây an phận với gánh than bó củi , hay thúng khoai " triêng" sắn , ngày ngày mịt mù trong nương rẫy cho đến lúc về nhà thì đã lên đèn , những ngọn đèn dầu mù u tỏa những làn khói xám xịt.
đèn biển mùa câu mực hàm tân.
Hôm đó dù mất một ngày đi rẫy nhưng tôi đã sống một ngày có ý nghĩa vì vợ tôi có một ngày thoải mái cùng vui vẻ với đồng nghiệp bạn bè cùng bà con trong thôn xóm, còn tôi được một ngày gần con. Tôi làm sao quên đựơc hình ảnh vợ tôi phải bỏ một ngày may bằng tay mấy tất vải thun tiêu chuẩn cho ra cái áo mới để đi ăn đám cưới. Hình ảnh những chiếc áo dài đã thực sự biến mất vào thời gian này thế vào đó là những chiếc áo Bà Ba hay sơ mi kiểu nữ .
Lòng tôi còn ghi đậm mớ thịt heo vợ tôi bới về sau khi ăn cưới vì thương chồng con thiếu thốn ở nhà . Đó là những lát thịt heo tôi ăn ngon nhất trong đời và cứ suýt xoa khen mãi. Con heo đen đó là cả một gia tài của một cô giáo vùng quê chắt chiu nưôi lớn , cả một ước mơ của dân áo vải quần thô, sắn khoai thay gạo. Đó là những lát thịt heo mang nặng tình nghĩa vợ chồng. Đó là kỷ niệm khó quên cho tôi về một vùng kinh tế mới - nơi có mái trường rách nát tả tơi cùng đám học trò nghèo ngây thơ đến tội nghiệp.
Kỷ niệm một vùng quê nghèo tính thời gian bằng tuổi con gái tôi hôm nay. Thời gian trôi mau thật thấp thoáng mà đã hai mươi mấy năm qua. Hôm nay nhìn cái tủ lạnh của nhà tôi đầy ắp thức ăn, thực lòng tôi chẳng tha thiết ăn gì. Chợt nghiệm ra rằng khi qua xứ Mỹ tôi chưa lần nào có lại cái cảm giác ngon lành năm xưa như mấy lát thịt heo trong ngày cưới cô Ph. Bao nhiêu hình ảnh lần lượt hiện về trong trí nhớ tôi: vợ tôi tất tả ra về những miếng thịt heo đùm trong chiếc mũ vải, ngày cưới cô giáo làng không áo dài không tiếng pháo, đám học trò lem lưốc vùng quê , những gánh than và những rẫy sắn trải dài bất tận…
Đóng lại cánh cửa tủ lạnh chợt tôi buông tiếng thở dài.
Đinh Trọng Phúc
nhớ về vùng đất rẫy
nhớ về vùng đất rẫy
CHÂM NGÔN
Poverty is not a shame, but the being ashamed of it is
nghèo không nhục nhưng xấu hổ vì nghèo mới nhục