ĐINH TỘC GIA PHẢ TIỀN TỔ CÔNG TÍCH KÝ LỤC

ĐINH TỘC GIA PHẢ
TIỀN TỔ CÔNG TÍCH KÝ LỤC
( BẢN GIA PHẢ HỌ ĐINH
Ở ĐÔ KỲ, HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH )​
( Do ông Phạm Xuân Dẫn ở xóm 7, Đô Kỳ, xã Đông Đô, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình chuyển cho Ban Tổ chức của Dòng họ Đinh ở các xã Bình Lăng ( Chi Lăng ), Minh Tân và Lô Giang, tỉnh Thái Bình​
ngày 20 tháng 11 năm Mậu Dần (1998) )​
Người dịch: ông Đinh Hoài tức Đinh Xuân Hải

Phiên âm Hán - Việt:

Tổ quán kim cải Thanh Hoa tỉnh, Lương Giang huyện, tức kim cải vi Thụy Nguyên huyện, Thuý Cối sách, kim cải Mỹ Lâm sách.

ĐINH THỈNH truy tặng Mục Huệ Đại Vương, thú thê Thần Khê huyện, Đô Kỳ xã nhân; sinh nam tử ĐINH TÔN NHÂN truy tặng Thái Uý Hùng Quốc Công, thú thê bản huyện, Khả Lam sách, kim Lam Sơn hương, nãi Lê Thái Tổ chi nữ đệ Lê Quý thị huý Vồi, phong Quốc Phu nhân, sinh hoạch tam nam: Trưởng Đinh Lễ, thứ Đinh Bồ, quý Đinh Liệt.

Trưởng nam Đinh Lễ huý Ngợi, thứ nam Đinh Bồ huý Huyếnh, quý nam Đinh Liệt huý , tịnh hữu tài lược, di đốc tinh trung. Thích Trần quý chi thời, tao Bắc binh chi biến, Công đẳng nãi lệ hanh truân chi chí, hộ kiển tế chi tài, tương dữ phụ tá
Đức Thái Tổ Cao Hoàng Đế, thủ ứng nghĩa kỳ chi cử, phấn tích ư Lam Sơn. Thời Ngô tặc tướng Thôi Tụ, Hoàng Phúc, Phương Chính, Lý An đẳng bối túng binh xâm lược, kỳ phong bất khả đương, nhi Công đẳng quyết chinh phạt, tuỳ tòng gian nan cộng tế. Ư Mậu Tuất niên chính nguyệt sơ nhị nhật hỗ tòng ngự giá trực để Trịnh Luỹ đỗng kháng ngữ địch binh. Sơ cửu nhật thoái đôn ư Lạc Thuỷ chi sơn, thiết phục ư Mỹ Linh xứ. Thập tam nhật phụng mệnh hiệp dữ Lê Ngân, Lê Lý đẳng thân tiên phá trận, trảm thủ thiên dư cấp, quân nhu khí giới bất khả thăng kế. Canh Tý niên Ngô tặc lăng phong đại chúng chí Phụng Tân xứ. Công đẳng nhân tòng Đế tiến nhập Mường Một sơn, đồng nghị mưu phục binh tứ diện, hiệp giữ Triện, Lê Lộng, Lê Vấn đẳng, tướng binh tiềm tích, an lộ ư hoạch nguỵ cừ, tặc chúng đại hội, thừa thắng trảm thủ bất khả thăng kế. Thị niên kế công nghị thưởng, tịnh thăng vi Thứ thủ Thiết Đột Quân Sự: Đinh Lễ vi Lý Nghĩa Bá, Đinh Bồ vi Hoằng Vũ Bá, Đinh Liệt vi Lân Vũ Bá. Tân Sửu niên hựu phụng mệnh hiệp dữ Lê Bí, Lê Xí đẳng phục binh ư Úng Ải xứ. Ngọ thời dịch chí túng binh hiệp chiến, tặc chúng đại bại. Thị niên tịnh phục thăng Thực Vệ Chức. Nhâm Dần niên, Ngô tặc dữ Ai Lao quốc tương ước hiệp công ư Quan Da sách. Đế thân đốc chư tướng. Thập nhị nguyệt, Công phụng mệnh dữ Lê Hào, Lê Lĩnh đẳng thân tiên hãm trận, trảm đắc tặc tướng Phùng Quý tại Thôi Ngôi sách. Quý Mão niên, Đế dẫn binh hồi cứ chí Linh Sơn, dương kết hoà thân, cô vi viện binh chi kế. Giáp Thìn niên,Đế nãi phân binh phá tặc, thừa thắng trường khu, trực hướng Nghệ An thành, Trà Lân, Tà Long đẳng địa phương. Hựu khâm Đế hiệp dữ Lê Khoa, Lê Bôi đẳng cử tặc ư Khả Lưu, Chi Lăng. Tặc chúng đại hội, trảm thủ bất khả thăng kế. Thị niên luận công, tịnh phụng thăng Tham Đốc chức, Hầu tước. Ất Tỵ ngũ nguyệt, khâm mệnh vãng Diễn Châu. Hội Ty Trương Hùng đẳng lĩnh thuyền tam bách dư chích, tự Đông Quan chí thành trung. Phục binh trảm đắc thiên dư cấp, tặc thoái tẩu, công đẳng đoạt lương thuyền truy chi. Đinh Mùi niên, Đinh Lễ đồng Nguyễn Xí đẳng giao chiến ư My Động xứ. Thị nhật, tặc tướng Vương Thông suất tinh binh ư Tây Phù Liệt kiên bích khu thủ. Đế nãi mệnh Đinh Lễ, Đinh Bồ, Nguyễn Xí đẳng lĩnh Thiết Đột binh ngũ bách dư nhân công chi hãm trận trung, vị tặc sở chấp quy Đông Thành. Kỳ Đinh Lễ bất khuất tử chi. Đinh Bồ ẩn nhập Thiên Nữu sơn, quá Hưng Nguyên huyện bị trận vong. Kỳ Đinh Liệt thị niên khâm mệnh dữ Lê Nhân Chú phục binh ư Chi Lăng trảm đắc tặc tướng An Viễn Hầu Liễu Thăng, cầm hoạch tắc tướng Lý An, Hoàng Phúc đẳng. Ngô tặc đại hội, tẩu tán. Tự thị lưỡng quốc gia hoà, thiên hạ vô sự.
Mậu Thân niên, Đế tức vị Thuận Thiên nguyên niên, văn vũ thần liêu định công hành thưởng. Đinh Liệt thănh Thái Bảo, tước Quận Công, vinh phong Suy trung tán trị dương vũ công thần.

* Kỳ thân huynh ĐINH LỄ bị trận vong, Đế tư kỳ công, truy tặng Bình Ngô Khai Quốc, Suy tán trị dực vận bảo chính công thần, Thái Bảo Bân Quận Công, phụng tứ Quốc tính. Hồng Đức nguyên niên gia tặng Thái Sư Bân Quốc Công, hậu gia phong Hiển Khánh Đại Vương. Lăng mộ tại Mỹ Lâm sách, từ vũ tại bản sách phụng sự; hựu từ tại Hoàng Mai xã phụng sự Phúc Thần,
kỵ thần chính nguyệt thập tam nhật.
Thú thê Chương Đức huyện, Cống Khê xã, tiền Thái Truyền Trang Quốc Công, Bùi tộc nữ, huý Liễu, phong Quốc Phu Nhân, lăng mộ tại Lam Sơn hương, Đức Già thôn.
kỵ thần cửu nguyệt thập bát nhật.
sinh hoạch tam nam nhất nữ:
Trưởng nam Đinh Trung, thứ Đinh Huệ, quý Đinh Vĩnh Thái, trưởng nữ Đinh Thị Ngọc Kế.

* ĐINH BỒ trận vong, phụng truy tặng Bình Ngô khai quốc công thần, Thái Bảo Định Quốc Công, phụng tứ Quốc tính, hậu hựu gia phong Linh Cảm Đại Vương. Tại Hưng Nguyên huyện, Phúc Điền xã lập lăng tịnh miếu từ tại y xã phụng sự, hựu từ tại bản quán,
kỵ thần chính nguyệt thập lục nhật.
Thú thê Lam Sơn hương, Đoá Tú thôn, tiền Thái Uý Trung Quốc Công Lê Lâm chi nữ tử, huý Liễu, phong Quốc Phu Nhân. Lăng mộ tại Tú Đoá,
kỵ thần tam nguyệt thập lục nhật.
Sinh nữ tử Đinh Thị Ngọc Ban, phụng thị Đức Thái Tổ Cao Hoàng Đế.

* Thái Bảo Lân Quốc Công ĐINH LIỆT hoàn phụ tá Đức Thái Tông Văn Hoàng Đế, Nhân Tông Tuyên Hoàng Đế triều. Diên Ninh lục niên Kỷ Mão hữu Phạm Đồn, phan Ban dữ Lạng Sơn Vương tiềm mưu mô, lập cải nguyên Thiên Hưng nguyên niên. Canh Thìn niên, Đinh Liệt suất cựu chư thần tru Đồn, Ban đồ đảng định loạn, phụng nghinh Thánh Tông Thuần Hoàng Đế đăng ngọc vị, cải nguyên Thuận Thiên nguyên niên. Tân Tỵ niên, Đinh Liệt phụng thăng Tĩnh nạn kiệt tiết dực vận tuyên lực công thần, Đặc Tiến Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty, Nhập Nội Kiểm Hiệu Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự kiêm Nội Ngoại binh dân từ tụng, Thượng Trụ Quốc, trân quản Thiết Bàn Quân, Trung Phẩm, phụng ngự Thái Sư Lân Quốc Công, phụng tứ Quốc tính. Thập nhị nguyệt thập tam nhật bệnh hoăng, gia tặng phong Trung Mục Đại Vương. Lăng mộ tại bản quán Mỹ Lâm sách, từ vũ tại bản quán phụng sự,
kỵ thần thập nhị nguyệt thập tam nhật.
Thú thê Ngọc Sơn huyện, Thạch Nội xã, Đào thị nữ huý Ngọc Phú, phong Quốc Phu Nhân, lăng tại Thạc Nội xã.
Kỵ thần thập nhị nguyệt thập tam nhật.
Sinh hoạch nhị nam nhất nữ:
Trưởng nam Đinh Công Đột, thứ nam Đinh Công Hiến, trưởng nữ Đinh Thị Ngọc Mai, tái dưỡng Đinh Thị Ngọc Kế tặng phong Càn Bà Vương.

Đệ nhị thế:

* Tiền ĐINH THỊ NGỌC KẾ, thú phu Yên Định huyện, Đồng Bàng xã, Thái Uý Chương Khánh Công, gia phong Diên Ý Dụ Vương Ngô Từ sinh nam nữ thập cửu nhân, nữ tử Ngô Thị Ngọc Giao phụng thị Đức Thái Tông Văn Hoàng Đế, vinh phong Quang Thục Hoàng Thái Hậu, dĩnh sinh Thánh Tông Thuần Hoàng Đế.

Canh Dần niên, Đế phạt Chiêm Thành quốc, ngự khải hoàn, Hoàng Thái Hậu hành nghinh đáo Nghệ An xứ, Hương Sơn huyện địa phương. Hoàng Thái hậu băng, nghinh hồi lập lăng mộ tại Lam Sơn hương, hậu hựu phỏng lập miếu điện tại ngoại tổ hương Thần Khê, Thư Trì đẳng huyện, Đô Kỳ, An Lão đẳng xã, hiệu Dụ Phúc, Đốc Hữu đẳng điện, quốc tế tứ thời bát tiết, chuẩn cấp y đẳng xã vi tạo lệ dân, cập chuẩn cấp tế điền tại y đẳng xã, dĩ di nội ngoại tôn điệt thủ viên, chiêu mệnh ngoại tôn Đinh tộc, lưu truyền tử tôn giám thủ phụng sự,
kỵ thần tam nguyệt nhị thập lục nhật.

*** Đinh Trung, Đinh Huệ, Đinh Vĩnh Thái, Đinh Công Đột, Đinh Công Hiến đẳng tịnh phụ tá
Đức Thái Tổ Cao Hoàng Đế hoàn Đức Thái Tông Văn Hoàng Đế chí Thánh Tông Thuần Hoàng Đế triều, truy tuỳ phù giá nghiệp hữu công cập tảo diệt Đồn, Ban tịch tiễu trừ Bồn Man, Chiêm Thành đẳng bối, tịnh hữu huân lao ư quốc. Đinh Trung thăng Thiếu Bảo chức, Hầu tước, Đinh Huệ Thiếu Uý, Hầu tước. Đinh Vĩnh Thái Thừa Tuyên Sứ, Hầu tước. Đinh Công Đột Binh Bộ Tả thị Lang, Hầu tước. Đinh Công Hiến Đô Chỉ Huy Sứ, Hầu tước.

* Tiền ĐINH TRUNG, tặng Thiếu Uý chức, Hầu tước.
Lăng mộ từ đường tịnh tại tổ quán,
kỵ thần tam nguyệt nhị thập thất nhật.
Tỉ Ngô Thị chánh phu nhân,
kỵ thần ngũ nguyệt sơ nhị nhật.
Sinh tử tôn tồn cư quán, Y chi biệt loại.

* Tiền ĐINH HUỆ, tặng Thiếu Uý chức, Hầu tước. Chánh thất Ngô Thị, hiệu Minh Đạo. Lăng mộ tịnh tại Lam Sơn hương. Dao xá vô tử tức.

* Tiền ĐINH VĨNH THÁI, Ngân Thanh Vinh Lộc Đại Phu, Tả Xa Kỵ Vệ Thuận Hoá xứ Thừa Chánh Sứ Vệ, Trung Nghĩa Hầu, giám thủ tại xá thế nghiệp điền tại Thư Trì huyện, An Lão xã, kế sinh tử tôn tịnh cư y xã, phụng sự Đốc Hữu điện ngoại tổ cô Quang Thục Hoàng Thái Hậu. Kỳ Đinh Vĩnh Thái lăng mộ tại y xã, Lang Nha thôn,
kỵ thần tứ nguyệt nhị thập tam nhật.
Chánh thất Ngô Quý Thị, lăng tại y xã, Giám Nghị thôn,
kỵ thần thất nguyệt sơ ngũ nhật.
Kỳ y chi biệt loại.

* Tiền ĐINH CÔNG ĐỘT, huý Quý, sĩ chí Binh Bộ Tả Thị Lang kiêm Tông Nhân Phủ Tông Nhân Lệnh Tả Tông Nhân, Văn Thắng Hầu, phụng phối Quận Chúa Lê Thị Ngọc Đường, di cư Nông Cống huyện, Thanh Nê xã, Đống Cải thôn. Mộ lăng tại y xã thôn, nhất mẫu nhị cao,
kỵ thần ngũ nguyệt thập thất nhật.
Quận Chúa lăng tại Lam Sơn hương,
kỵ thần tứ nguyệt sơ tam nhật.
Sinh tứ nam:
Trưởng nam Đinh Công Địch huý Huỳnh, thứ nam Đinh Công Minh huý Viêm, thứ tam nam Đinh Tiến Lộc huý Lạn, thứ tứ nam Đinh Khắc Thận huý Yên.

* ĐINH CÔNG HIẾN huý Ưng, Trần Tứ Sương Đô Chỉ Huy Sứ, Thượng Phẩm, tứ Dương Thác Phốc Đầu Cấp, Thái Thường Thời Ký Cận, tặng Triệu Xương Bá. Lăng mộ phụ táng tại Mỹ Lâm sách,
kỵ thần chính nguyệt thập nhất nhật.
Chánh thất phu nhân Vũ thị, đồng táng tại bản sách,
kỵ thần tam nguyệt sơ tam nhật.
Sinh nhi nam: Trưởng nam Đinh Nhân Thực huý Chương, thứ nam Đinh Thế Biểu huý Thân.

Đệ tam thế:

*** Trưởng chi Đinh Công Địch, Đinh Công Minh, Đinh Tiến Lộc, Đinh Khắc Thận, Đinh Nhân Thực, Đinh Thế Biểu tịnh phụ tá
Đức Thánh Tông Thuần Hoàng Đế hoàn Đức Hiến Tông Tư Hoàng Đế triều, truy tuỳ tùng phù giá chinh Chiêm Thành tặc, phả hữu công lao. Đinh Công Địch Triêu Liệt Đại Phu. Đinh Công Minh sỹ chí Công Bộ Hữu Thị Lang, Lương Nghĩa Hầu. Đinh Tiến Lộc Triêu Dương Hầu. Đinh Khắc Thận Tiền Nghĩa Doanh, Mỹ Lâm Hầu. Đinh Nhân Thực thăng Đô Tổng Binh Sứ, Lễ Toàn Hầu. Đinh Thế Biểu thăng Tả Hiệu Điểm, Sùng Thiện Hầu.

* Tiền ĐINH CÔNG ĐỊCH, Triêu Liệt Đại Phu, cư Nông Cống huyện, Thanh Nê xã. Lăng mộ tại y huyện, Chu Xuyến xã, Thị thôn, Mả Trắc xứ,
kỵ thần tứ nguyệt sơ ngũ nhật.
Chính thất Ngô thị. Táng tại y huyện, Na Sơn xứ,
kỵ thần bát nguyệt thập ngũ nhật.
Sinh nhị nam: Đinh Công Mệnh, Đinh Công Quang.

* Tiền ĐINH CÔNG MINH, sĩ chí Công Bộ Hữu Thị Lang, Lương nghĩa Hầu. Thú thê Lam Sơn hương, Lê Thị Ngọc Mại, lăng mộ tịnh tại Lam Sơn,
kỵ thần tam nguyệt thập bát nhật.
tỉ Lê quý thị
kỵ thần nhị nguyệt thập thất nhật.
Sinh nhị nam: Đinh Công Hữu, Đinh Công Thành.

* Tiền ĐINH TIẾN LỘC, Triêu Dương Hầu. Lăng tại Đống Cải thôn, Mả Trão Trùm xứ,
kỵ thần tam nguyệt thập bát nhật.
Chính thất Lê quý thị, hiệu Ngọc Chân, táng tại Nhân Cương xã,
kỵ thần bát nguyệt thập lục nhật.
Sinh nhất nam Đinh Công Hiếu.

* Tiền ĐINH KHẮC THẬN, Tiền Nghĩa Doanh, Mỹ Lâm Hầu. Lăng tại Đống Cải thôn, Cồn Sâm xứ,
kỵ thần tứ nguyệt thập bát nhật.
Chính thất Trịnh quý thị. Lăng tại Đội Phục xã, Võng thôn,
kỵ thần thất nguyệt sơ bát nhật
Sinh nhị nam: Đinh Công Tụ, Đinh Công Trinh.

* Tiền ĐINH NHÂN THỰC, Đô Tổng Binh Sứ, Lễ Toàn Hầu, di cư Ngọc Sơn huyện, Thạch Nội xã. Lăng tại y xã,
kỵ thần bát nguyệt sơ nhị nhật.
Chính thất Lê quý thị. Chính Phu nhân lăng tại y xã,
kỵ thần tứ nguyệt thập lục nhật.
Sinh tử tôn tại y xã. Y chi biệt loại.

* ĐINH THẾ BIỂU, Đô Hiệu Điểm Ty Tả Hiệu Điểm, Sùng Thiện Hầu, cư ngoại tổ quán Thần Khê huyện, Đô Kỳ xã, Phú Lãng thôn, giám thủ Phúc Dụ Điện phụng ngoại Tổ Cô Quang Thục Hoàng Thái Hậu, tịnh giám thủ tự sự tế điền tại y thôn. Kỳ lăng mộ tại y huyện, Y Đốn xã nhất khu,
kỵ thần thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật.
Tỷ chính thất Phu nhân Trần quý thị, lăng tại y xã,
kỵ thần thất nguyệt nhị thập nhật.
Sinh đắc nhất nam Đinh Thế Khoan. Ngoại ngoại tiên tổ Đinh Thế Biểu đắc địa hiệu Bà Sang xứ thiên táng, đắc nữ nhân thú phu Thanh Hoa nhân Đinh Thỉnh.

Đệ thứ thế:

Trưởng chi cư Nông Cống huyện, Thanh Nê xã, dĩ hạ:
* Tiền ĐINH CÔNG MỆNH sinh nhất nam: Đinh Công Hệ.
* Tiền ĐINH CÔNG QUANG sinh nhất nam: Đinh Công Tế.
* Tiền ĐINH CÔNG HỮU sinh nhất nam: Đinh Phúc Vận.
* Tiền ĐINH CÔNG THÀNH sinh nhất nam: Đinh Công Vĩnh.
* Tiền ĐINH CÔNG HIẾU sinh nhất nam: Đinh Công Vực.
* Tiền ĐINH CÔNG TỤ
* Tiền ĐINH CÔNG TRINH sinh nhị nam: Đinh Công Uy, Đinh Công Viết.
Di cư Nông Cống huyện, Thanh Nê dĩ thượng.

* Tiền ĐINH THẾ KHOAN (GIÁC) phụng sự Đức Thánh Tông hoàn Đức Hiến Tông triều, thảo tặc hữu công, truy tặng Thái Uý Triệu Quốc Công, sinh lục nam: Đinh Thế Hoàn, Đinh Thế Phụ, Đinh Thế Liễn, Đinh Trọng An, Đinh Thế Đỉnh, Đinh Thế Tuyên.

Đệ ngũ thế:

* Trưởng chi: ĐINH CÔNG HỆ sinh nhất nam: Đinh Phúc Thọ.
* Tiền ĐINH CÔNG TỀ sinh nhất nam: Đinh Công Chính.

*** Tiền Đinh Phúc Vận, Đinh Thế Hoàn, Đinh Công Phụ, Đinh Thế Liễn, Đinh Trọng An, Đinh Thế Đỉnh, Đinh Thế Tuyên đẳng phụng thị
Đức Thánh Tông hoàn Đức Hiến Tông Tư Hoàng Đế chí Đức Chiêu Tông Thần Hoàng Đế triều, chinh Chiêm Thành hữu công tịnh vinh phong thăng Triêu Nghĩa Tán Trị Công Thần. Đinh Phúc Vận thăng Thái Bảo Nam quận Công. Đinh Thế Hoàn Đô Chỉ Huy Sứ, tặng Thái Bảo Hoằng Tuy Hầu. Đinh Công Phụ thụ Trấn Điện Tướng Quân, Tri Cấm Đình Vệ Lực Sĩ Sự. Đinh Thế Liễn thăng Đô Chỉ Huy Đồng Tri chức. Đinh Trọng An thăng Đô Chỉ Huy Sứ, tặng Đô Đốc Thiêm Sự, Trinh Nghị Hầu. Đinh Thế Đỉnh thăng Đô Chỉ Huy Đồng Tri. Đinh Thế Tuyên thăng Đô Chỉ Huy Đồng Tri.

* Thứ chi:
Tiền ĐINH PHÚC VẬN, Minh Nghĩa Công Thần, Thái Bảo Nam Quận Công, sinh nhất nam: Đinh Thừa Cận.
* Tiền ĐINH THẾ VĨNH sinh nhất nam: Đinh Công Khánh.
* Tiền ĐINH CÔNG VỰC sinh nhất nam: Đinh Công Quý.
* Tiền ĐINH CÔNG UY sinh nhất nam: Đinh Công Quý.
* Tiền ĐINH CÔNG VIẾT sinh nhất nam: Đinh Công Đức.
* Tiền ĐINH THẾ HOÀN sinh nhất nam: Đinh Công Lộc.
* Tiền ĐINH CÔNG PHỤ, Trấn Điện Tướng Quân, Tri Cấm Đình Vệ Lực Sỹ, sinh nhất nam: Đinh Tấn.
* Tiền ĐINH THẾ LIỄN, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh nhất nam: Đinh Thế Vinh.
* Tiền ĐINH TRỌNG AN Tán Trị Công Thần, Đô Chỉ Huy Sứ, tặng Đô Đốc Thiêm Sự, Trinh Nghị Hầu, sinh ngũ nam: Đinh Công Kiệt, Đinh Công Tuấn, Đinh Công Nghiễm, Đinh Công Nghi, Đinh Công Giản.
* Tiền ĐINH THẾ ĐỈNH, Kim Ngô Vệ Chỉ Huy Sứ Ty, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh nhất nam: Đinh Hồi.
* Tiền ĐINH THẾ TUYÊN, Đô Chỉ Huy Đồng Tri.

Đệ lục thế:

* Trưởng chi tiền cư Thanh Nê xã: Tiền ĐINH PHÚC THỌ, sinh nhất nam: Đinh Công Hảo.
*** Tiền Đinh Thừa Cận, Đinh Tịnh, Đinh Tấn, Đinh Thế Vinh, Đinh Công Kiệt đẳng phụng
Đức Thế Tổ Thái Vương hoàn Đức Thành Tổ Triết Vương triều, tiễu trừ nghiệt Mạc, phả hữu công lao, vinh phong: Đinh Thừa Cận Vũ Uy Dũng Tán Trị công Thần, Thái Tể Thuý Quận Công. Đinh Tịnh thăng Cẩn Lễ Công Thần, Nam Quân Đô Đốc Phủ Tả Đô Đốc, Thái Bảo Bái Dương Hầu. Đinh Tấn, Đinh Thế Vinh, Đinh Công Kiệt đẳng tịnh thăng Đô Chỉ Huy Đồng Tri chức, Hầu tước. Lăng tại Đô Kỳ xã, y thôn.

* Thứ chi cư Thần Khê, đô Kỳ dĩ hạ:Tiền ĐINH THỪA CẬN, Dương Vũ Uy Dũng Tán Trị Công Thần, tặng Thái Tể Thuý Quận Công. Lăng tại Diên Hà huyện, Hoành Mỹ xã nhất khu,
kỵ thất nguyệt thập lục nhật.
Thú thê Tiền Thái Uý Liệt Quốc Công Trịnh Khả chi nữ tử Trịnh Thị Ngọc Phụ. Lăng mộ phụ táng tại y huyện, y xã, phong Quận Phu Nhân,
kỵ thập nguyệt sơ cửu nhật.
Sinh nhị nam: Đinh Phúc Diên, Đinh Phúc Nghị xuất Cẩm Giàng huyện, Hàm Giang xã.

* Tiền ĐINH TỊNH Cẩn Lễ Công Thần, Nam Quân Đô Đốc Phủ Tả Đô Đốc, tặng Thái Uý Bái Dương Hầu, sinh bát nam: Đinh Điển, Đinh Nhi, Đinh Tán, Đinh Chấn, Đinh Củng, Đinh Truật, Đinh Cầu, Đinh Mai.

* Tiền ĐINH TẤN, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh nhất nam: Đinh Xung.
* Tiền ĐINH THẾ VINH, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh nhất nam: Đinh Nhân Thọ.
* Tiền ĐINH CÔNG KIỆT, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh nhất nam: Đinh Công Kiếm.
* Tiền ĐINH CÔNG TUẤN, sinh nhất nam: Đinh Công Nghĩa.
* Tiền ĐINH CÔNG NGHIỄM sinh nhất nam: Đinh Công Quy.
* Tiền ĐINH CÔNG NGHI sinh nhất nam: Đinh Công Nham.
* Tiền ĐINH CÔNG GIẢN sinh nhất nam: Đinh Công Triều.
* Tiền ĐINH HỒI.

Đệ thất thế:

* Trưởng chi: Tiền ĐINH CÔNG HẢO sinh nhất nam: Đinh Công Hiến.
* Tiền ĐINH CÔNG HỌC sinh nhất nam: Đinh Công Xiêm.

*** Tiền Đinh Phúc Diên, Đinh Điển, Đinh Nhi, Đinh Xung, Đinh Nhân Thọ, Đinh Công Kiếm đẳng tịnh phụng thi
Đức Văn Tổ Tuyên Vương triều, tiễu trừ nghiệt Mạc, chung thuỷ toàn công. Đinh Phúc Diên phụng đắc Kim Bài, vinh thăng Tán Trị Công Thần, Thiếu Uý Dương quận Công. Đinh Điển, Đinh Nhi, Đinh Xung, Đinh Nhân Thọ, Đinh Công Kiếm đẳng thăng Đô Chỉ Huy Đồng Tri chức.

* Tiền ĐINH PHÚC DIÊN, Tán Trị Công Thần, tặng Thiếu Uý Dương Quận Công. Lăng tại Thư Trì huyện, An Lão xã nhất khu,
kỵ thần tứ nguyệt thập bát nhật.
Tỉ Quận Phu Nhân phụ táng tại y xứ,
kỵ thần thập nguyệt thập ngũ nhật.
Sinh nhất nam: Đinh Phúc Tiến, xuất Hàm Giang xã.

* Tiền ĐINH ĐIỂN, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh nhất nam: Đinh Thế Hải.
*Tiền ĐINH NHI Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh nhất nam: Đinh Thuần Tín.
* Tiền ĐINH TÁN, * Tiền ĐINH CHẤN, * Tiền ĐINH CỦNG,
* Tiền ĐINH TRUẬT, * Tiền ĐINH CẦU, * Tiền ĐINH MAI,
đồng huynh đệ.

* Tiền ĐINH XUNG Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh nhất nam: Đinh Nhân Thiệu.
* Tiền ĐINH CÔNG KIẾM Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh nhất nam: Đinh Công Toàn.
* Tiền ĐINH CÔNG NGHĨA
&

Lê Thái Tổ di thư Vương Thông viết: “ Khứ nhất câu thủy, đại hải bất vi chi kiệt ”. Hựu hữu thi:
Phục binh phát pháo kế thi công,
Thập vạn tinh binh nhất đán không,
Câu thủy khởi năng thương hải kiệt,
Thất cơ đãn hận tỏa anh hùng.

Lê Thánh Tông hữu thi: (Đinh Liệt)
Huân lao tá mệnh thục như công,
Nhật nguyệt năng minh báo quốc trung,
Ngữ đức luận công Y dữ Bột,
Sơn hà đới lệ bảo sơ chung.
*
* *
Thanh Hoa Kiều Sơn môi
Đinh thị khai quốc công thần tổ địa:

Truyền vân: Đinh thi chi tổ nghinh tiên sinh Hoàng Côn công, Hoàng Kình công huynh đệ nhị nhân tướng địa. Kinh nhất niên dư, lễ nghĩa thậm hậu. Thử nhật, Hoàng Côn trạch đắc cát địa nhất huyệt tại Kiều Sơn môi, trạch nhật cát táng. Hoàng Côn viết: "Thử địa đại cát, phú quý vô dư. Đãn nhân dữ ngã thậm hậu, nhi ngã chi sở dư giả: Trực thuỷ hoành tâm, ba thanh chấn động, hoành thiên tam trĩ. Thuỷ tuy sinh chi anh hùng tảo địa nhất lưu, chung tất khủng nhất môn chi đạo kiếp". Hoàng Kình viết: "Bất nhiên, đắc kỳ hình giả bất như đắc kỳ thế, khán kỳ biểu giả bất như khán kỳ nguyên. Thử địa giả, mộ đáo chiếu tiền, vạn đẩu án triều như nhật nguyệt chi tranh quang, triều lai tiến nạp bách chu thuỷ dẫn thị khách nhân chi khể tảng. Địa chi tối linh giả, tự cổ cập kim vi hữu nhất chu chi phản thủ, nhất nhân chi phản thân, huống bỉ hậu thế sinh văn vũ tướng tướng, thục cảm phản hồ ?" Quả nhiên hậu táng đắc tứ thập nhị niên, Đinh công sinh tam tử: Trưởng tử Đinh Lễ tỉ cư vu Thần Khê huyện, Đô Kỳ xã, dĩnh xuất thất đại Quận Công, tịnh hộ giá chinh Chiêm Thành Thượng Quốc Công, bảo giá chinh Đại Minh Đại Việt Quốc Công, chí kim phú quý vị một. Thứ tử Đinh Bồ vi Lê triều khai quốc Thượng Tướng Quân. Quý tử Đinh Liệt vi Lê triều khai quốc Đại Tướng Quân. Đinh Lễ chi tử viết Đinh Nghi xuất Cẩm Giàng huyện, Hàn Giang xã, dĩ hậu bát đại Quận Công, chí kim binh ấn vị mẫn. Đinh Liệt chi tử tôn viết Đinh Liễn vi Lê triều khai quốc Đại Tướng Quân. Xuất Thanh Hoa Kiều Sơn môi nhị đại phụ mã, nhất đại Hoàng Hậu, chí kim phú quý vị suy.

*
(Quyển Phả này còn một số trang viết lặp lại công lao của các ông Tổ họ Đinh, một số thơ viếng các ông Đinh Lễ, Đinh Liệt, họ tên các con ông Ngô Từ, tên các con Vua Lê Thánh Tông, một số bà Công chúa ... nhưng không chép ra ở đây).

Dịch nghĩa:

Quê tổ nay đổi tên là tỉnh Thanh Hoa (Thanh Hoá ngày nay), huyện Lương Giang, tức nay đổi tên là huyện Thuỵ Nguyên, sách Thuý Cối, nay đổi tên là sách Mỹ Lâm.

Ông ĐINH THỈNH được truy tặng Mục Huệ Đại Vương, lấy vợ là người huyện Thần Khê, xã Đô Kỳ, sinh con trai là ĐINH TÔN NHÂN được truy tặng là Thái Uý Hùng Quốc Công, lấy vợ người cùng huyện, sách Khả Lam, nay là làng Lam Sơn. Bà là em gái Vua Lê Thái Tổ, tên là Lê Thị Ngọc Vồi, được phong là Quốc Phu Nhân. Sinh được ba con trai: Trưởng là Đinh Lễ, thứ là Đinh Bồ, út là Đinh Liệt.
Con trai cả Đinh Lễ, huý là Ngợi.
Con trai thứ Đinh Bồ, huý là Huyếnh.
Con trai út Đinh Liệt huý là .
Đều có tài thao lược, dốc lòng trung nghĩa. Giặp lúc giặc Bắc gây biến động vào cuối thời nhà Trần, các ông đều có chí gắng sức đạp bằng gian truân, có tài giúp rập vượt qua nguy khó, đều cùng phò tá
Đức Thái Tổ Cao Hoàng Đế, đứng đầu ứng nghĩa dưới ngọn cờ khởi nghĩa bừng bừng khí thế còn ghi dấu ở Lam Sơn. Gặp khi bọn tướng giặc NgôThôi Tụ, Hoàng Phúc, Phương Chính, Lý An tung quân xâm lược, dù khó đương đầu với mũi nhọn, nhưng các ông đã quyết tâm chiến đấu, chia sẻ gian nan.
Ngày mùng 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), hộ giá Vua tiến thẳng đến động Trịnh Luỹ kháng cự quân giặc.
Ngày mùng 9 lui về đóng đồn trên núi ở Lạc Thuỷ, đặt phục binh ở Mỹ Lâm.
Ngày 13 vâng mệnh cùng các ông Lê Ngân, Lê Lý đích thân xông lên trước phá trận, chém đươc hơn nghìn đầu giặc, thu được quân nhu khí giới nhiều vô kể.

Năm Canh Tý (1420), giặc Ngô ào ạt xâm phạm tới xứ Phụng Tân, các ông cùng mọi người theo Vua tiến vào Mường Một, cùng bàn mưu tính kế phục binh bốn mặt, cùng với các ông Lê Triện, Lê Lộng, Lê Vấn, tất cả quân tướng dấu mình bên đường cạnh con ngòi đánh ra, quân giặc chạy tán loạn, quân ta thừa thắng chém đầu giặc nhiều vô kể. Năm đó xét công nghị thưởng, đều được thăng làm Thứ Thủ quân Thiết Kỵ Đột, Đinh Lễ làm Lý Nghĩa Bá, Đinh Bồ làm Hoằng Vũ Bá, Đinh Liệt làm Lân Vũ Bá.

Năm Tân Sửu (1421), lại phụng mệnh cùng các ông Lê Bí, Lê Xí phục binh ở Úng Ải. Đến 12 giờ trưa, quân địch đến và tung quân ra giáp chiến, quân giặc đại bại. Năm đó các ông đều được thăng chức Thực Vệ.

Năm Nhâm Dần (1422), giặc Ngô cùng các nước Ai Lao ( Lào ) hiệp mưu với nhau giáp công với quân ta ở sách Quan Da. Vua thân đốc các tướng đánh giặc. Tháng Chạp, ông phụng mệnh cùng các ông Hào, Lê Lĩnh đích thân xông lên trước phá trận, chém được tướng giặc Phùng Quý ở sách Thôi Ngôi.

Năm Quý Mão (1423), Vua dẫn quân trở về đóng căn cứ ở Linh Sơn, vờ giảng hoà với giặc, làm kế chờ viện binh. Năm Giáp Thìn, Vua liền chia quân phá giặc, thừa thắng đuổi giặc chạy dài thẳng về thành Nghệ An và các địa phương Trà Lân, Trà Long. Lại vâng mệnh cùng các ông Lê Khoa, Lê Bôi đánh giặc ở Khả Lưu, Chi Lăng. bọn giặc tan tác, chém đầu giặc nhiều vô kể. Năm đó luận công, đều được thăng lên chức Tham Đốc, tước Hầu.

Tháng 5 năm Ất Tỵ ( 1425), vâng mệnh đến Diễn Châu. Bọn Hội Ty Trương Hùng đem hơn 300 thuyền lương từ Đông Quan đưa đến thành. Phục binh ta chém được hơn nghìn đầu giặc, quân giặc thua chạy, các ông đoạt lấy thuyền lương và truy đuổi theo.

Năm Đinh Mùi (1427), các ông Đinh LễNguyễn Xí giao chiến với gặc ở My Động. Ngày hôm đó, tướng giặc là Vương Thông chỉ huy tinh binh chống cự quyết liệt ở Tây Phù Liệt. Vua ra lệnh cho các ông Đinh Lễ, Đinh Bồ, Nguyễn Xí lĩnh hơn 500 quân Thiết Đột xông lên đánh địch, bị vây hãm trong trận và bị giặc bắt đem về thành Đông Quan. Đinh Lễ bất khuất hy sinh. Đinh Bồ đem quân vào giấu ở núi Thiên Nữu, qua huyện Hưng Nguyên bị trận vong. Còn Đinh Liệt năm ấy vâng mệnh cùng Lê Nhân Chú phục binh ở Chi Lăng chém được tướng giặc là An Liễu Hầu Liễu Thăng, bắt được tướng giặc là bọn Lý An, Hoàng Phúc. Quân giặc tan tác đại bại. Từ đó hai nước giảng hào, thiên hạ bình yên.

Tháng 3 năm Mậu Thân (1428), Vua lên ngôi đạt niên hiệu là Thuận Thiên, định công ban thưởng cho quần thần văn võ. Đinh Liệt được thăng tước Thái Bảo Quận Công, vinh phong là Suy trung tán trị dương vũ công thần ( bậc Công thần có lòng trung, đã giúp trị yên giặc dã, hiển hách võ công ).

* Anh ruột là ĐINH LỄ bị trận vong. Vua nhớ đến công lao, truy tặng là Bình Ngô khai quốc, Suy trung tán trị dực vận bảo chính công thần ( bậc Công thần có lòng trung, đã giúp trị yên giặc dã, phù giúp vận nước, bảo vệ chính quyền ), Thái Bảo Bân Quận Công, được Vua ban mang họ Vua. Năm Hồng Đức thứ nhất được phong tặng là Thái Sư Bân Quốc Công, sau lại gia phong là Hiển Khánh Đại Vương. Lăng mộ ông tại sách Mỹ Lâm. Có đền thờ ông tại sách này; cũng có đền thờ ông làm Phúc Thần xã Hoàng Mai,
giỗ ngày mười ba tháng giêng.
Vợ người huyện Chương Đức, xã Cống Khê, là con gái quan Thái Truyền Trang Quốc Công, họ Bùi, huý Liễu, được phong Quốc Phu Nhân. Lăng mộ bà tại làng Lam Sơn, thôn Đức Già,
giỗ ngày mười tám tháng chín.
Con trai trưởng Đinh Trung, con trai thứ Đinh Huệ, con trai út Đinh Vĩnh Thái; con gái trưởng Đinh Thị Ngọc Kế.

* ĐINH BỒ trận vong, được truy tặng Bình Ngô khai quốc công thần, Thái Bảo Định Quốc Công, được Vua ban mang họ Vua, sau lại gia phong là Linh Cảm Đại Vương. Lăng miếu và đền thờ tại xã Phúc Điền, huyện Hưng Nguyên, cũng có đền thờ tại quê gốc,
giỗ ngày mười sáu tháng giêng.
Vợ người thôn Đoá Tú, làng Lam Sơn, là con gái Thái Uý Trung Quốc Công Lê Lâm, huý Ngọc Thuận, được phong Quốc Phu Nhân. Lăng mộ tại thôn Đoá Tú,
giỗ ngày mười sáu tháng ba.
Sinh được Đinh Thị Ngọc Ban, hầu hạ Đức Thái Tổ Cao Hoàng Đế.

* Thái Bảo Lân Quận Công ĐINH LIỆT còn phò tá Đức Thái Tông Văn Hoàng Đế, Nhân Tông Tuyên Hoàng Đế. Năm Diêm Ninh thứ sáu Kỷ Mão (1459), bọn Phạm Đồn, Phan Ban cùng Lạng Sơn Vương âm mưu cướp ngôi Vua, đổi niên hiệu là Thiên Hưng. Năm Canh Thìn (1460), Đinh Liệt lãnh đạo các cựu thần diệt được bọn Đồn, Ban cùng đồ đảng của chúng, dẹp yên mối loạn, đón Vua Thánh Tông Thuần Hoàng Đế lên ngôi báu, đổi niên hiệu là Quang Thuận năm thứ nhất (1460). Năm Tân Tỵ (1461), Đinh Liệt được thăng thưởng là Tĩnh nạn kiệt tiết dực vận tuyên lực công thần ( bậc Công thần đã hết lòng hết sức phò Vua tránh được hoạn nạn, phù giúp vận nước), Đặc tiến khai phủ nghi đồng Tam Ty, Nhập Nội Kiểm Hiệu, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự kiêm Nội Ngoại binh dân từ tụng, Thượng Trụ Quốc, trần quản Thiết Bàn Quân, Trung Phẩm, được Vua phong là Thái Sư Lân Quốc Công, được Vua ban mang Họ Vua. Ngày mười ba tháng chạp bị bệnh từ trần, được gia tặng là Minh nghĩa hiệp mưu đồng đức công thần ( bậc Công thần có lòng trung nghĩa và đức độ trong sáng, đã hiến nhiều mưu kế giúp nước ) kiêm Thái Tử Thái Sư Lân Quốc Công, gia phong là Trung Mục Đại Vương. Lăng mộ tại quê sách Mỹ Lâm, đền thờ tại quê nhà,
giỗ ngày mười ba tháng chạp.
Vợ người xã Thạch Nội, huyện Ngọc Sơn, họ Đào, huý Ngọc Phú, được phong Quốc Phu Nhân. Lăng mộ ở xã Thạch Nội,
giỗ ngày mười ba tháng chạp.
Sinh được hai con trai, một con gái:
Con trưởng Đinh Công Đột, con thứ Đinh Công Hiến; con gái trưởng Đinh Thị Ngọc Mai; lại nuôi con nuôi là Đinh Thị Ngọc Kế được tặng phong là Càn Bà Vương.

Đời thứ hai:

* ĐINH THỊ NGỌC KẾ, lấy chồng người xã Đồng Bàng, huyện Yên Định, là con trai quan Thái Uý Chương Khánh Công, được gia phong là Diên Ý Dụ Vương Ngô Từ, sinh được mười chín người con. Con gái ông bà là Ngô Thị Ngọc Giao hầu hạ Đức Thái Tông Văn Hoàng Đế, được vinh phong là Quang Thục Hoàng Thái Hậu, sinh ra Vua Thánh Tông Thuần Hoàng Đế.

Năm Canh Dần (1470) (1), Vua chinh phạt nước Chiêm Thành, ngự giá khải hoàn, Hoàng Thái Hậu đi đón tiếp đến địa phương huyện Hương Sơn, tỉnh Nghệ An thì Hoàng Thái Hậu băng, được rước về lập lăng mộ tại làng Lam Sơn, sau phỏng theo để lập điện thờ tại các xã Đô Kỳ và xã An Lão, thuộc các huyện Thần Khê và huyện Thư Trì, hiệu là điện Phúc Dụ và điện Đốc Hữu để bốn mùa tám tiết cúng tế ở cấp Quốc gia, chuẩn cấp người phục dịch thờ cúng cho các xã này và chuẩn cấp ruộng đất để thờ cúng tại xã đó, để lại cho con cháu nội ngoại coi giữ, bên trái thờ cúng cháu ngoại họ Đinh, lưu truyền lại cho con cháu trông nom thờ cúng,
giỗ ngày hai mươi sáu tháng ba
--------------------------------------------------------​
(1) Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên (trang 517, tập II, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985) chép rằng Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Giao bị bệnh nặng sau khi đi lễ lăng về và mất ngày 26 tháng 2 nhuận năm Bính Thìn (1496, Hồng Đức năm thứ 27) Người dịch: Đinh Hoài tức Đinh Xuân Hải)
-----------------------------------------------------​
*** Các ông Đinh Trung, Đinh Huệ, Đinh Vĩnh Thái, Đinh Công Đột, Đinh Công Hiến đều phò tá
Đức Thái Tổ Cao Hoàng Đế, Đức Thái Tông Văn Hoàng Đế đến Đức Thánh Tông Thuần Hoàng Đế, đều theo Vua phò giá có công, lại đều có thành tích đối với nước nhà trong việc quét sạch bọn Đồn, Ban và tiễu trừ Bồn Man, Chiêm Thành. Đinh Trung được thăng chức Thiếu Bảo, tước Hầu. Đinh Huệ chức Thiếu Uý, tước Hầu. Đinh Vĩnh Thái chức Thừa Tuyên Sứ, tước Hầu. Đinh Công Đột chức Tả Thị Lang Bộ Binh, tước Hầu. Đinh Công Hiến chức Đô Chỉ Huy Sứ, tước Hầu.

* ĐINH TRUNG được tặng phong chức Thiếu Bảo, tước Hầu. Lăng mộ, Từ đường đều tại quê Tổ,
giỗ ngày hai mươi bẩy tháng ba.
Vợ cả họ Ngô,
giỗ ngày mồng hai tháng năm.
Các con cháu đều ở quê tổ. Chi này ở nơi khác.

* ĐINH HUỆ được tặng phong chức Thiếu Uý, tước Hầu. Vợ cả họ Ngô, hiệu Minh Đạo. Lăng mộ đều tại làng Lam Sơn. Ông bà không có con.

* ĐINH VĨNH THÁI được tặng phong chức Ngân Thanh Vinh Lộc Đại Phu, Tả Xa Kỵ Vệ, Thừa Chánh Sứ Ty Thừa Chánh Vệ Sứ ở Thuận Hoá, tước Trung Nghĩa Hầu, trông nom nhà cửa ruộng vườn ở xã An Lão, huyện Thư Trì, con cháu sinh ra đều ở xã này thờ cúng bà Tổ Cô bên ngoại là Quang Thục Hoàng Thái Hậu ở điện Đốc Hữu. Lăng mộ ông Đinh Vĩnh Thái tại thôn Lang Nha thuộc xã này,
giỗ ngày hai mươi ba tháng tư.
Vợ cả họ Ngô. Lăng mộ bà tại thôn Giám Nghị thuộc xã này,
giỗ ngày mồng năm tháng bẩy.

* ĐINH CÔNG ĐỘT huý QUÝ, làm quan đến chức Tả Thị Lang Bộ Binh, kiêm Tông Nhân Phủ Tông Nhân Lệnh Tả Tông Chính, tước Văn Thắng Hầu, vâng mệnh lấy Quận Chúa Lê Thị Ngọc Đường, di cư đến thôn Đống Cải, xã Thanh Nê, huyện Nông Cống. Lăng mộ để tại thôn xã này trên diện tích một mẫu hai sào,
giỗ ngày mồng ba tháng tư.
Quận Chúa lăng mộ tại làng Lam Sơn,
giỗ ngày mồng ba tháng tư.
Sinh được bốn con trai:
Con trai cả Đinh Công Địch huý Huỳnh, con trai thứ hai Đinh Công Minh huý Viêm, con trai thứ ba Đinh Tiến Lộc huý Lạn, con trai thứ tư Đinh Khắc Thận huý Yên.

* ĐINH CÔNG HIẾN huý ƯNG, giữ chức Trần Tứ Sương Đô Chỉ Huy Sứ, quan Thượng Phẩm, được ban Dương Thác Phốc Đầu Cấp, Thái Thường Thời Ký Cận, tặng phong tước Triệu Xương Bá. Lăng mộ phụ táng tại sách này,
giỗ ngày mười một tháng giêng.
Vợ cả họ , cũng an táng tại sách này,
giỗ ngày mồng ba tháng ba.
Sinh được hai con trai: Con trai trưởng Đinh Nhân Thực huý Chương, con trai thứ Đinh Thế Biểu huý Thuân.

Đời thứ ba:

Chi trưởng Đinh Công Địch, Đinh Công Minh, Đinh Tiến Lộc, Đinh Khắc Thận, Đinh Nhân Thực, Đinh Thế Biểu đều phò tá
Đức Thánh Tông Thuần Hoàng Đế, còn phò tá Đức Hiến Tông Tư Hoàng Đế, đã theo phò tá chinh phạt nước Chiêm Thành, đều có công lao. Đinh Công Địch phong là Chiêu Liệt Đại Phu. Đinh Công Minh làm quan đến chức Hữu Thị Lang Bộ Công, tước Lương Nghĩa Hầu. Đinh Tiến Lộc tước Triêu Dương Hầu. Đinh Khắc Thận giữ chức Tiền Nghĩa Doanh, tước Mỹ Lâm Hầu. Đinh Nhân Thực được thăng lên chức Đô Tổng Binh Sứ, tước Lễ Toàn Hầu. Đinh Thế Biểu được thăng lên chức Tả Hiệu Điểm, tước Sùng Thiện Hầu.

* ĐINH CÔNG ĐỊCH, chức tước Chiêu Liệt Đại Phu, ở xã Thanh Nê, huyện Nông Cống. Lăng mộ tại huyện này, xã Chu Xuyến, thôn Chợ, xứ Mả Trắc,
giỗ ngày mùng năm tháng tư.
Vợ cả họ Ngô, an táng tại huyện này, xứ Na Sơn,
giỗ ngày mười năm tháng tám.
Sinh được hai con trai: Đinh Công Mệnh, Đinh Công Quang.

* ĐINH CÔNG MINH, làm quan đến chức Hữu Thị Lang Bộ Công, tước Lương Nghĩ Hầu. Vợ là Lê Thị Ngọc Mại, người làng Lam Sơn. Lăng mộ đều tại Lam Sơn.
giỗ ngày mười tám tháng ba.
Vợ họ
giỗ ngày mười bẩy tháng hai.
Sinh được hai con trai: Đinh Công Hữu, Đinh Công Thành.

* ĐINH TIẾN LỘC, tước Triêu Dương Hầu. Lăng tại thôn Đống Cải, xứ Mả Trão Trùm,
giỗ ngày mười tám tháng ba.
Vợ cả họ, hiệu là Ngọc Chân. An táng tại xã Nhân Cương,
giỗ ngày mười sáu tháng tám.
Sinh được một con trai: Đinh Công Hiếu.

* ĐINH KHẮC THẬN, chức Tiền Nghĩa Doanh, tước Mỹ Lâm Hầu. Lăng tại thôn Đống Cải, xứ Cồn Sâm,
giỗ ngày mười tám tháng tư.
Vợ cả họ Trịnh. Lăng tại xã Đội Phục, thôn Võng,
giỗ ngày mùng tám tháng bẩy.
Sinh được hai con trai: Đinh Công Tụ, Đinh Công Trinh.

* ĐINH NHÂN THỰC, chức Đô Tổng Binh Sứ, tước Lễ Toàn Hầu, di cư đến xã Thạch Nội, huyện Ngọc Sơn. Lăng tại xã này,
giỗ ngày mùng hai tháng tám.
Vợ cả họ . Lăng bà tại xã này, giỗ ngày mười sáu tháng tư.
Sinh con cháu tại xã này. Chi này ở nơi khác.

* ĐINH THẾ BIỂU, chức Đô Hiệu Điểm Ty Tả Hiệu Điểm, tước Sùng Thiện Hầu, ở quê ngoại tại thôn Phú Lãng, xã Đô Kỳ, huyện Thần Khê, trông nom điện Dụ Phúc thờ cúng Tổ Cô ngoại là Hoàng Thái Hậu Quang Thục, đồng thời cũng trông nom ruộng nương để cúng lễ tại thôn này. Lăng mộ ông để trên một khu đất ở xã Y Đốn, huyện này,
giỗ ngày hai mươi bốn tháng mười một.
Vợ họ Trần. Lăng mộ để tại xã này,
giỗ ngày hai mươi tháng bẩy.
Sinh được một con trai: Đinh Thế Khoan. Bà ngoại Tổ của Đinh Thế Biểu được một ngôi đất thiên táng ở xứ Bà Sang, sinh được một người con gái lấy chồng người tỉnh Thanh Hoa (Thanh Hoá) là Đinh Thỉnh.

Đời thứ tư:

Từ đây trở xuống là chi trưởng ở huyện Nông Cống, xã Thanh Nê:
* ĐINH CÔNG MỆNH sinh một con trai: Đinh Công Hệ.
* ĐINH CÔNG QUANG sinh một con trsi: Đinh Công Tề.
* ĐINH CÔNG HỮU sinh một con trai: Đinh Phúc Vận.
* ĐINH CÔNG THÀNH sinh một con trai: Đinh Công Vinh.
* ĐINH CÔNG HIẾU sinh một con trai: Đinh Công Vực.
* ĐINH CÔNG TỤ.
* ĐINH CÔNG VINH sinh hai con trai: Đinh Công Uy, Đinh Công Viết.
Từ đây trở lên di cư đến ở xã Thanh Nê, huyện Nông Cống.

* ĐINH THẾ KHOAN (GIÁC) thời Vua Thánh TôngHiến Tông, đánh giặc có công, được truy tặng Thái Uý Triệu Quốc Công, sinh được sáu người con trai: Đinh Thế Hoàn, Đinh Thế Phụ, Đinh Thế Liễn, Đinh Trọng An, Đinh Thế Đỉnh, Đinh Thế Tuyên.

Đời thứ năm:

* Chi trưởng: ĐINH CÔNG HỆ sinh được một con trai: Đinh Phúc Thọ.
* ĐINH CÔNG TỀ sinh được một con trai: Đinh Công Chí.

*** Đinh Phúc Vận, Đinh Thế Hoàn, Đinh Công Phụ, Đinh Thế Liễn, Định Trọng An, Đinh Thế Đỉnh, Đinh Thế Tuyên đều thờ Vua Thánh Tông, Hiến Tông Tư Hoàng Đế đến Vua Chiêu Tông Thuần Hoàng Đế, chinh phạt nước Chiêm Thành có công, đều vinh phong là Triêu Nghĩa Tán Trị Công Thần. Đinh Phúc Vận được thăng Thái Bảo Nam Quận Công. Đinh Thế Hoàn thăng Đô chỉ Huy Sứ, tặng phong Thái Bảo Hoằng Tuy Hầu. Đinh Công Phụ giữ chức Trấn Điện Tướng Quân, Tri Cấm Đình Vệ Lực Sĩ Sĩ Sự. Đinh Thế Liên thăng chức Đô Chỉ Huy Đồng Tri. Đinh Trọng An thăng chức Đô Chỉ Huy Sứ, tặng phong Đô Đốc Thiêm Sự, Trinh Nghị Hầu. Đinh Thế Đỉnh thăng Đô Chỉ Huy Đồng Tri. Đinh Thế Tuyên thăng Đô Chỉ Huy Đồng Tri.

* Chi thứ: ĐINH PHÚC VẬN, Minh Nghĩa Công Thần, Thái Bảo Nam Quận Công, sinh được một con trai: Đinh Thừa Cận.
* ĐINH THẾ VĨNH sinh một con trai: Đinh Công Khánh.
* ĐINH CÔNG VỰC sinh một con trai: Đinh Công Quý.
* ĐINH CÔNG UY sinh một con trai: Đinh Công Đức.
* ĐINH CÔNG VIẾT sinh một con trai: Đinh Công Lộc.
* ĐINH THẾ HOÀN, Tán Trị Công Thần, Đô Chỉ Huy Sứ, tặng Thái Bảo, tước Hoằng Tuy Hầu, sinh một con trai: Đinh Tịnh.
* ĐINH CÔNG PHỤ, Trấn Điện Tướng Quân, Tri Cấm Đình Vệ Lực Sĩ Sĩ Sự, tặng phong Thái Bảo, tước Hoằng Tuy Hầu, sinh một con trai: Đinh Tấn.
* ĐINH THẾ LIỄN, Đô Chỉ Huy Đông Tri, sinh một con trai: Đinh Thế Vinh.
* ĐINH TRỌNG AN, Tán Trị Công Thần, Đô Chỉ Huy Sứ, tặng phong Đô Đốc Thiêm Sự, tước Trinh Nghị Hầu, sinh được năm con trai: Đinh Công Kiệt, Đinh Công Tuấn, Đinh Công Nghiễm, Đinh Công Nghi, Đinh Công Giản.
* ĐINH THẾ ĐỈNH, Kim Ngô Vệ Chỉ Huy Sứ Ty, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh một con trai : Đinh Hồi.
* ĐINH THẾ TUYÊN, Đô Chỉ Huy Đồng Tri.

Đời thứ sáu:

* Chi trưởng ở xã Thanh Nê: ĐINH PHÚC THỌ sinh một con trai: Đinh Công Hảo.
* ĐINH CÔNG CHÍ sinh một con trai: Đinh Công Học.

*** Đinh Thừa Cận, Đinh Tịnh, Đinh Tấn, Đinh Thế Vĩnh, Đinh Công Kiệt đều phụng sự Đức Thế Tổ Thái Vương (Trịnh Kiểm) và Đức Thành Tổ Triết Vương (Trịnh Tùng), đều có công lao tiễu trừ bọn Mạc yêu nghiệt, được vinh phong: Đinh Thừa CậnDương Vũ Uy Dũng Tán Trị Công Thần, Thái Tể Thuý Quận Công; Đinh Tịnh thăng chức Cẩn Lê Công Thần, Nam Quân Đô Đốc Phủ Tả Đô Đốc, Thái Bảo Bái Dương Hầu; Đinh Tấn, Đinh Thế Vinh, Đinh Công Kiệt đều được thăng chức Đô Chỉ Huy Đồng Tri, tước Hầu. Lăng mộ ở thôn này, xã Đô Kỳ.

* Chi thứ dưới đây ở xã Đô Kỳ, huyện Thần Khê: ĐINH THỪA CẬN, Dương Vũ Uy Dũng Tán Trị Công Thần, tặng phong Thái Tể Thuý Quận Công. Lăng mộ để trên một khu đất ở xã Hoàng Mỹ, huyện Diên Hà ( Duyên Hà ) ( nay là xã Thống Nhất, Hưng Hà, Thái Bình ),
giỗ ngày mười sáu tháng bẩy.
Vợ Trịnh Thị Ngọc Phụ, con gái quan Thái Uý Liệt Quốc Công Trịnh Khả. Lăng mộ táng ở xã và huyện này, được phong Quận Phu Nhân,
giỗ ngày mùng chín tháng mười.
Sinh được hai con trai Đinh Phúc Diên, Đinh Phúc Nghị ra ở xã Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng.

* ĐINH TỊNH, Cẩn Lễ Công Thần, Nam Quân Đô Đốc Phủ Tả Đô Đốc, tặng Phong Thái Uý, tước Bái Dương Hầu. Lăng mộ tại thôn này. Sinh tám con trai: Đinh Điển, Đinh Nhi, Đinh Tán, Đinh Chấn, Đinh Củng, Đinh Truật, Đinh Cầu, Đinh Mai.
* ĐINH TẤN, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh một con trai: Đinh Xung.
* ĐINH THẾ VINH, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh một con trai: Đinh Nhân Thọ.
* ĐINH CÔNG KIỆT, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh một con trai: Đinh Công Kiếm.
* ĐINH CONG TUẤN sinh một con trai: Đinh Công Nghĩa.
* ĐINH CÔNG NGHIỄM sinh một con trai: Đinh Công Quy.
* ĐINH CÔNG NGHI sinh một con trai: Đinh Công Nham.
* ĐINH CÔNG GIẢN sinh một con trai: Đinh Công Triều.
* ĐINH HỒI.

Đời thứ bẩy:

* Chi trưởng: ĐINH CÔNG HẢO sinh một con trai: Đinh Công Hiến.
* ĐINH CÔNG HỌC sinh một con trai: Đinh Công Xiêm.

*** Đinh Phúc Diên, Đinh Điển, Đinh Nhi, Đinh Xung, Đinh Nhân Thọ, Đinh Công Kiếm đều phụng sự
Đức Văn Tổ Tuyên Vương tiễu trừ bọn Mạc yêu nghiệt, trước sau đều có công. Đinh Phúc Diên được ban Kim Bài ( Thẻ vàng) , vinh thăng là Tán Trị công Thần, Thiếu Uý Dương Quận Công. Đinh Điển, Đinh Nhi, Đinh Xung, Đinh Nhân Thọ, Đinh Công Kiếm đều được thăng chức Đô Chỉ Huy Đồng Tri.

* ĐINH PHÚC DIÊN, Tán Trị Công Thần, tặng phong Thiếu Uý Dương Quận Công. Lăng mộ để tại một khu đất ở xã An Lão, huyện Thư Trì,
giỗ ngày mười tám tháng tư.
Vợ là Quận Phu Nhân, lăng mộ được phụ táng tại xứ này.
giỗ ngày mười năm tháng mười.
Sinh được một con trai: Đinh Phúc Tiến ra ở xã Hàm Giang.

* ĐINH ĐIỂN, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh một con trai: Đinh Thuần Tín.
* ĐINH TÁN *ĐINH CHẤN * ĐINH CỦNG
* ĐINH TRUẬT * ĐINH CẦU * ĐINH MAI
đều cùng là anh em.
* ĐINH XUNG, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh một con trai: Đinh Vũ.
* ĐINH NHÂN THỌ, Đô Chỉ Huy Đồng Tri, sinh một con trai: Đinh Nhân Thiệu.
* ĐINH CÔNG KIẾM, Đô chỉ Huy Đồng Tri, sinh một con trai: Đinh Công Toàn.

&
Thư của Vua Lê Thái Tổ gửi cho Vương Thông ( Để xin đem thi hài ông Đinh Lễ về chôn cất ) có câu: " Mất đi một gáo nước, biển lớn không vì thế mà cạn ".
Lại có thơ ( khen ông Đinh Lễ ) dịch nghĩa:
Phục binh pháo nổ kế thành công,
Mười vạn quân Minh một sớm tan tành không còn gì *,
Một gáo nước mất đi, sao có thể làm cho biển lớn cạn,
Bị sa cơ, còn hận mãi cho người anh hùng.

Thơ Vua Lê Thánh Tông (khen ông Đinh Liệt) dịch nghĩa:
Phò vua có công lao lớn ai được như ông?
Lòng trung báo quốc, sáng như mặt trời mặt trăng,
Nói về đức và luận về công thì khác gì Y Doãn và Vương Bột,
Gánh vác sơn hà, giữ được trước sau như một.
*
* *
Đất Tổ họ Đinh khai quốc công thần
ở núi Kiều sơn, Thanh Hoá.

Truyền rằng: Ông tổ họ Đinh đón hai anh em thầy địa lý là Hoàng CônHoàng Kình về nhà ở hơn một năm, lễ nghi rất hậu. Ngày đó, Hoàng Côn tìm được một huyệt ở nơi cát địa tại núi Kiều Sơn, chọn ngày lành tháng tốt để chôn cất. Hoàng Côn nói rằng: " Đất này đại cát, phú quý không gì bằng. Họ đối với ta rất hậu, nhưng ta còn e một điều là nước thẳng qua tâm, tiếng sóng chấn động thẳng lên trời ba ngọn. Lúc đầu tuy sinh ra một dòng anh hùng cái thế, nhưng chỉ sợ sau này một nhà sẽ bị nạn đạo kiếp ".

Hoàng Kình nói rằng: " Không Phải thế, được hình không bằng được thế, xem xét bề ngoài không bằng xem xét cội nguồn. Đất này lúc chiều hôm xuống, muôn sao làm án triều về như nhật nguyệt đua nhau soi sáng, nước dẫn trăm thuyền chầu về tiến nộp đó là khách rập đầu cúi lạy. Đất này cực linh thiêng, tự cổ đến nay chưa có một chiếc thuyền nào quay đầu đi, chưa có một người nào quay lưng lại, huống chi sau này sinh ra tướng văn tướng võ ai còn giám phản lại đây ? ''.

Quả nhiên sau khi táng được bốn mươi hai năm, ông họ Đinh sinh được ba người con trai: Con trưởng là Đinh Lễ dời nhà ra ở xã Đô Kỳ, huyện Thần Khê, sinh ra bẩy đời Quận Công; đều là Thượng Quốc Công hộ giá chinh phạt Chiêm Thành, là Quốc Công nước Đại Việt chinh phạt nhà Đại Minh, đến nay phú quý chưa dứt. Con thứ Đinh BồLê triều khai quốc Thượng Tướng Quân. Con út là Đinh LiệtLê triều khai quốc Đại Tướng Quân. Con cháu Đinhh LễĐinh Nghi ra ở xã Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng, sau này sinh ra tám đời Quận Công, đến nay chưa hết ấn cầm quân. Con cháu Đinh LiệtĐinh Liễn làm triều khai quốc Đại Tướng Quân. Đất ở núi Kiều Sơn, Thanh Hoa còn sinh ra hai đời làm Phò Mã, một đời làm Hoàng Hậu. Đến nay phú quý chưa suy giảm.
*
( Quyển Phả này còn một số trang viết lặp lại công lao của các ông Tổ họ Đinh, một số thơ viếng các ông Đinh Lễ, Đinh Liệt, họ tên các con ông Ngô Từ, tên các con Vua Lê Thánh Tông, một số bà Công chúa ..., nhưng không chép ra ở đây. ND: Đinh Hoài ).

&
Nhân dịp Tế lễ các ông tổ họ Đinh vào ngày 20 tháng 11 năm Mậu Dần (1998), theo đề nghị của Ban tổ chức họ Đinh xã Bình Lăng ( nay là xã Chi Lăng ); ông Phạm Xuân Dẫn ở xóm 7, Đô Kỳ, xã Đông Đô, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã sang thăm và thắp hương Từ đường họ Đinh tại xã Bình Lăng, và đã trao cho Ban tổ chức của Họ ở xã Bình Lăng bản “ Đinh tộc Gia phả Tiền tổ Công tích ký lục ” chép bằng chữ Hán do ông Phạm Xuân Dẫn lưu được. Quyển phả này ghi được 7 đời, tương ứng từ đời thứ 3 đến đời thứ 9 trong quyển Đinh Tộc Thế Phả.

Bản “ Đinh tộc Gia phả Tiền tổ Công tích ký lục ” là một tài liệu quan trọng, đã được Phó Giáo sư, Tiến sĩ KH Đinh Hoài, tức ông Đinh Xuân Hải dịch thuật để bổ sung vào quyển Đinh Tộc Thế Phả, chép ở phần Các Tư liệu.
 
Top